Trang chủ Thần Học Tính Vô Ngộ Của Kinh Thánh

Tính Vô Ngộ Của Kinh Thánh

bởi admin

Các giáo phụ của hội thánh đầu tiên có tin rằng Kinh Thánh luôn đúng trong mọi phương diện, kể cả lịch sử và khoa học không? Mặc dù họ không bàn luận chi tiết về chủ đề của sự vô ngộ (không thể sai lầm) của Kinh thánh, đó là hệ quả tự nhiên của niềm tin chắc chắn rằng Đức Chúa Trời là Tác giả của Kinh Thánh. Mặc dù không phải là người biện hộ cho sự vô ngộ của Kinh thánh, nhưng Bruce Vawter tuyên bố. “Sẽ là vô nghĩa nếu đặt câu hỏi rằng sự vô ngộ của kinh thánh, đúng hơn là hình thức tuyệt đối là sự thuyết phục phổ biến từ ban đầu của thời kỳ Cơ Đốc giáo, và từ thời kỳ Do Thái giáo trước đó. Đối với các Giáo phụ và các Ra-bi nói chung, việc chép lại Kinh Thánh mà bị sai bất kỳ lỗi nào là không thể tưởng tượng được;… nếu là lời của Đức Chúa Trời thì lời đó phải là chân thật, bất kể nó được biết đến là sự mầu nhiệm về sự mặc khải thiêng liêng hoặc giới thiệu về dữ liệu khoa học tự nhiên, hoặc cho dù nó bắt nguồn từ sự quan sát của con người hay ghi chép lại sự kiện của lịch sử.30

 

Lời tuyên bố trong các tác phẩm của các giáo phụ ban đầu minh chứng rõ ràng cho kết luận của Vawter, Clement ở Rô-ma (khoảng 30-95) đã viết trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, “Bạn đã học biết Kinh thánh chứa đựng lẽ thật và được Đức Thánh Linh soi dẫn. Bạn nhận ra rằng trong đó không có gì sai hoặc gây hiểu lầm.”31 Irenaeus tuyên bố rằng “không ai có ý thức bình thường mà có thể cho phép họ [những người phản đối Phúc âm Lu-ca là đáng tin cậy] chấp nhận một số điều được Lu-ca kể lại là đúng, và gạt những người khác sang một bên, như thể anh ta không biết lẽ thật.”32 Hơn nữa, cũng theo Irenaeus, chúng ta nên “được đảm bảo một cách đúng đắn nhất rằng Kinh thánh thực sự hoàn hảo, vì chúng đã được phán ra bởi Lời  của Đức Chúa Trời và Thánh Linh của Ngài.”33 Justin Martyr đã mạnh dạn khẳng định trong đối thoại của mình với Trypho, “Tôi hoàn toàn tin chắc rằng Kinh Thánh không mâu thuẫn với Kinh Thánh.” Dù có trưng dẫn một trường hợp nào đó có vẻ mâu thuẫn, ông nói thêm, “Tôi sẽ phải thừa nhận rằng tôi không hiểu điều đã được ghi chép nảy, và sẽ cố gắng thuyết phục những người suy nghĩ rằng Kinh thánh mâu thuẫn, hơn thế nữa là cùng quan điểm với tôi.”34

Origen cũng tuyên bố rằng mặc dù có thể xuất hiện mâu thuẩn trong Kinh thánh “đối với những người không có lỗ tai để nghe”, nhưng trên thực tế “không có mâu thuẩn …. [Cả hai] thực sự là một sự hòa hợp hoàn hảo.”35 Athanasius (khoảng năm 293–373) khẳng định tính vô ngộ về mọi khía cạnh của Kinh thánh khi ông viết, “Tuy nhiên, chúng tôi là những người mở rộng độ chính xác của Thánh Linh đến từng nét chữ và ý nghĩa, sẽ không bao giờ chấp nhận sự xác nhận ngầm…. ngay cả những vấn đề nhỏ nhất đã được xử lý một cách bừa bãi của những người ghi chép lại và do đó đã in trí cho đến ngày nay”36 Chrysostom cũng viết về sự thần cảm của tất cả các chi tiết trong Kinh thánh. Đối với những nhân vật được tìm thấy trong Kinh thánh “một đống chà là hoặc một chuỗi các tên” và chuyển cho họ bằng cách nói “chúng chỉ là những cái tên, chẳng có ích lợi gì gì trong đó”, Chrysostom trả lời, “Đừng thốt ra điều bỉ ổi như vậy. Đức Chúa Trời phán, và bạn trơ tráo nói, không có gì ích lợi trong những lời nói đó.”37 Một lần nữa, ông viết, “Với Kinh thánh… thì không giống như vậy. Vàng thì không nói dối trước mặt chúng ta là nó được trộn lẫn với đất; thay vì nói vàng chính là vàng.”38 Chrysostom rõ ràng là không đồng tình với ý kiến ​​của nhiều người ngày nay rằng sự vô ngộ của Kinh thánh chỉ giới hạn trong lẽ thật thuộc linh chứ không phải những vấn đề khác.

 

Augustine cũng đã xác nhận cho tính trung thực của toàn bộ Kinh thánh. Đề cập đến sáu mươi sáu sách kinh điển, ông nói, “Trong số các sách này, tôi tin xác quyết rằng các trước giả hoàn toàn không có sai sót.”39 Ở chỗ khác, ông viết, “Vì vậy, mọi điều được viết trong Kinh thánh phải được tin tưởng tuyệt đối.”40 Niềm tin của Augustine vào sự vô ngộ  của Kinh thánh đã ảnh hưởng đến những tuyên bố trong kinh thánh có liên quan đến khoa học. “Dù thế nào đi nữa, họ [các nhà khoa học] có thể dễ dàng chứng minh là đúng về bản chất vật lý.” Augustine nói, “chúng ta phải chứng tỏ khả năng hòa hợp đối với Kinh thánh, và bất cứ điều gì họ khẳng định trong các luận thuyết của họ là trái với những điều này trong Kinh thánh của chúng ta… hoặc chúng ta phải chứng minh điều đó cũng như hoặc chúng ta có thể là hoàn toàn thất bại, hoặc trong tất cả các sự kiện, chúng ta không chút do dự dù là điều nhỏ nhất phải tin rằng nó là như vậy.”41

 

Trong bức thư gửi Jerome, Augustine bác bỏ luận điểm của Jerome rằng một người tốt (Paul) có thể chối bỏ ý thức trách nhiệm. “Đối với tôi, dường như đây là hậu quả rất tai hại chắc chắn cập theo niềm tin của chúng ta đó là bất cứ điều gì sai lạc đều được tìm thấy trong các sách thánh…. Vì nếu các bạn đã từng tin vào điều thiêng liêng từ một tuyên bố sai lạc như vậy, cũng như từ trong cách thực hiện, thì sẽ không có bất cứ câu nào trong các sách này được lưu lại, mà nếu xuất hiện điều nào đó khó khăn trong thực hành hoặc khó tin tưởng, thì có thể không được giải thích bởi cùng một nguyên tắc nguy hại, như một tuyên bố cách cố ý trong đó, và theo ý thức trách nhiệm, tác giả đã tuyên bố những gì không đúng sự thật.”42

 

Nhằm vào tuyên bố này, một số người phản đối sự vô ngộ trong Kinh thánh đã cố gắng miêu tả khái niệm “sai lầm” trong kinh thánh của Augustine như là hành động cố ý nói dối. Jack Rogers và Donald McKim viết, “Sai lầm, là vì Augustine, có liên quan đến lời kể cố ý và lừa dối mà tác giả biết là không đúng sự thật. Chính trong bối cảnh nghiêm túc về đạo lý đó, ông đã tuyên bố rằng ‘các tác giả kinh thánh hoàn toàn không mắc lỗi.’ Ông đã không áp dụng khái niệm về sự sai lầm cho các vấn đề nảy sinh từ sự hạn chế của con người về kiến thức, các quan điểm khác nhau trong việc ký thuật lại các sự kiện, hoặc lịch sử hoặc điều kiện văn hóa của các tác giả.”43

Tuy nhiên, bức thư bổ sung của Augustine cho Jerome cho thấy rằng ông không có ý định hạn chế “sai lầm” vì sự lừa dối có chủ ý. Như đã nói ở trên, thì sau khi tuyên bố rằng, các tác giả kinh thánh “hoàn toàn không có sai lầm”, Augustine tiếp tục:

Đối với tất cả các tác phẩm [phi kinh thánh] khác, khi đọc chúng, dù có sự vượt trội của các tác giả này đối với bản thân tôi về sự thiêng liêng và kiến thức đến đâu, thì tôi cũng không chấp nhận lời dạy dựa trên cơ sở ý kiến của họ là đúng; nhưng chỉ vì họ đã thành công trong việc thuyết phục sự phán đoán của tôi về sự thật của nó hoặc bằng chính những tác phẩm kinh điển này, hoặc bằng những lập luận đề cập đến lý trí của tôi. Tôi tin anh trai của tôi vì đã cho rằng, đây là ý kiến của riêng bạn cũng như của tôi. Tôi không cần thiết phải nói rằng tôi không đề nghị bạn muốn những quyển sách này được đọc giống như những sách của các tiên tri hoặc của các sứ đồ, điều liên quan là có thể sẽ sai lầm khi hồ nghi những sách này hoàn toàn không sai lầm. Hãy tránh xa sự kiêu ngạo từ lòng đạo đức khiêm tốn đó và chỉ đánh giá về bản thân mà tôi biết bạn có.44

Trong lời gợi ý, Jerome đã không muốn các tác phẩm của mình bị cho là “không có sai sót” giống như Kinh thánh, rõ ràng là Augustine không có ý duy nhất là “không cố ý lừa dối.” Trong mối liên quan đó, các tác phẩm của Jerome có “sai sót” ông có thể nói với Jerome là các tác phẩm có chứa đựng “sự lừa dối có chủ ý,” một lời cáo buộc mà Augustine sẽ không bao giờ thực hiện được đối với Jerome. Augustine viết, “Bây giờ nếu tôi biết cuộc sống và cuộc trò chuyện của bạn, thì tôi không tin bạn đã nói những gì có ý định giả tạo và lừa dối, càng hợp lý hơn khi tôi tin vào Sứ đồ Phao-lô, vì ông đã không suy nghĩ điều này mà lại chấp nhận điều khác.”45 Để khẳng định rằng Kinh thánh là vô ngộ chỉ có trong nhận thức, thì việc họ không cố ý lừa dối khiến kinh thánh không khác với hầu hết các tác phẩm của con người. Vì có thể nói an toàn rằng hầu hết các tác giả con người không viết với mục đích cố ý để đánh lừa. Vì vậy, có thể yên tâm nói rằng hầu hết các trước giả con người không cố ý viết những lời lừa dối.

Những người khác gợi ý rằng những lời tuyên bố của Augustine về nơi ở của Đức Chúa Trời đối với nhân loại chúng ta trong việc viết Kinh thánh, (chẳng hạn như “một người mẹ khom lưng đối với con mình, rồi nói rằng như vậy để không khiến chúng ta bị tụt lùi đằng sau đối với tình trạng yếu đuối của chúng ta.”46) chỉ ra sự khác biệt trong thực tế hoặc sự thiếu “hài hòa trong tất cả các hình thức ngôn từ của nó.” Điều đặc biệt này được cho là để áp dụng với nhận thức của Augustine về các giải trình khác nhau của các trước giả Phúc âm, trong đó ông viết rằng Đức Thánh Linh “cho phép người này biên soạn câu chuyện của mình theo cách này, và người khác thì theo cách khác.”47 Tuy nhiên, không có tuyên bố nào của Augustine có ảnh hưởng hơn bất kỳ tuyên bố nào của các trước giả Phúc âm bị mắc sai lầm có thể được viện dẫn.48 Trên thực tế, mục đích tuyên bố của Augustine trong sự hài hòa của các Phúc âm là sự bác bỏ những người tìm cách làm mất uy tín của Cơ đốc giáo bằng cách chỉ ra những điểm khác biệt.” Và khi thực hiện kế hoạch này để dẫn đến kết thúc thành công, chúng ta phải chứng minh rằng các tác giả được đề cập không có bất kỳ sự đối kháng nào với nhau. Vì những kẻ chống đối này có thói quen là thêm vào lời cáo buộc nghiêm trọng trong tất cả những phản đối vô ích của họ, cụ thể là những người truyền bá phúc âm không hòa hợp với nhau.”49

Theo lời của nhà sử học John Woodbridge, thì sau đó Augustine đã tiến hành “một công việc hầu như trở nên việc làm hòa hợp đau đớn [để bổ sung] lời giải thích này đến lời giải thích khác để chứng minh rằng không có ‘lời giải trình mâu thuẫn nào’ (I, 35, 54) tồn tại trong các tuyên bố bằng lời của các Nhà truyền giáo khi được giải thích một cách hợp lý.”50

Sự thừa nhận của ông về sự đa dạng trong các giải trình Phúc âm (mà ông đã nhận ra là bổ sung chớ không là mâu thuẫn), và sự thừa nhận của ông về hiện tượng chứ không phải là ngôn ngữ kỹ thuật trong mô tả thiên nhiên, cả hai đều không làm sáng tỏ khái niệm về sự thích nghi của Augustine có nghĩa là sự thích nghi sai lầm. Đúng hơn, nó đề cập đến “cách thức hoặc phương thức của sự mặc khải, sự ban cho khôn ngoan của Đức Chúa Trời vô hạn dưới hình thái hữu hạn, chứ không phải đặc tính của sự mặc khải hay vấn đề được bày tỏ.”51 Ý nghĩa của sự thích nghi này, được Origen và Chrysostom cũng như những người khác giảng dạy, được nhìn thấy qua sự so sánh các văn bản của họ về Ngôi Lời với Đấng Christ, là Lời hằng sống. Cũng như John Hannah giải thích, “Vì sự thích nghi của Lời hằng sống không liên quan đến sự ô nhiễm tội lỗi trong bất kỳ nhận thức bẩm sinh nào, nên sự thích nghi của Thánh Linh trong lời được viết ra phải được quan niệm tương tự (so the Spirit’s accommodation in the written word must be similarly conceived), như Origen đã đề nghị. Chắc chắn, Hội thánh ban đầu tin vào sự thích nghi nhưng không tỏ thái độ phản đối trước sự sai sót trong lời được viết hoặc Lời hằng sống. Hành động hạ mình là sự đáp ứng khiêm nhường được nhận thức bởi con người lầm lỗi, chứ không phải là sự kết hợp của bản chất sai lầm của con người. Vì Đấng Christ đã không gánh lấy tội lỗi của loài người khi nhập thể, nên Thánh Linh cũng không khuất phục trước sự thấp hèn đó trong việc truyền đạt Kinh thánh.”52

Những tác phẩm này và các tác phẩm khác của Augustine cung cấp bằng chứng rõ ràng về niềm tin vững chắc của ông vào tính tuyệt đối không thể sai lầm của Kinh thánh.53 Ngay cả Hans Küng, một học giả Công giáo La Mã, cũng thừa nhận rằng Augustine “cho con người chỉ là công cụ của Đức Thánh Linh; duy chỉ Thánh Linh quyết định nội dung và hình thức của các bản văn trong Kinh thánh, kết quả là toàn bộ Kinh thánh không có mâu thuẫn, sai lầm và sai sót, hoặc phải được duy trì bằng cách hài hòa, hình thức ngụ ngôn hoặc thần bí hóa. Ảnh hưởng của Thánh Augustine liên quan đến sự soi dẫn và sự vô ngộ của Kinh thánh đã thịnh hành trong suốt thời kỳ Trung cổ và ngay cả trong thời kỳ hiện đại.”54 Do đó, học thuyết của Augustine về sự thần cảm của Kinh thánh, bao gồm cả sự vô ngộ của Kinh thánh trong mọi vấn đề, là nền tảng cho niềm tin chung của các giáo phụ thời kỳ đầu của hội thánh.

 

Trích từ UNDERSTANDING CHRITIAN THEOLOGY

Translated by Peter Hieu

Có thể bạn quan tâm