Trang chủ Thần Học Người Baptist Tin Gì?

Người Baptist Tin Gì?

bởi admin

 

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA HỆ PHÁI BÁP-TÍT NĂM 1689

 

Tác giả: Stan Reeves, Ph. D

Xuất bản năm 2017

Nhà xuất bản Founders Press, US

Bản dịch của Vietnamese Missionary Institute

  1. KINH THÁNH

Kinh Thánh là tiêu chuẩn tin cậy, đầy đủ và chính xác duy nhất của mọi tri thức, niềm tin và sự thực hành.1 Sự sáng được bày tỏ qua tự nhiên, qua công việc sáng tạo và sự chu cấp của Đức Chúa Trời đã chỉ rõ sự tốt lành, khôn ngoan và năng quyền của Ngài mà con người không thể chối bỏ. Tuy nhiên, những minh chứng này không đủ để mang đến hiểu biết về Chúa và ý muốn của Ngài cần có cho sự cứu rỗi.2 Do đó, Chúa sẵn lòng dùng những thời điểm và nhiều cách khác nhau để bày tỏ chính Ngài và tuyên bố ý muốn của Ngài với Hội Thánh.3 Để gìn giữ và phổ biến lẽ thật tốt hơn và để đặt nền tảng, yên ủi Hội Thánh về sự bảo đảm lớn lao hơn ngược lại với sự ham muốn của xác thịt, âm mưu của ma quỷ và thế gian, Chúa đã đặt sự mặc khải này hoàn toàn trong những bản Kinh Thánh viết tay. Do đó, Kinh Thánh là quyển sách cần phải có cho con người. Chúa dùng nó để bày tỏ ý muốn Ngài.4

 

11 Ti-mô-thê 3:15-17; Ê-sai 8:20; Lu-ca 16:29; Ê-phê-sô 2:20;

2Rô-ma 1:19-21; Rô-ma 2:14, 15; Thi thiên 19:1-3;

3Hê-bơ-rơ 1:1;

4Châm ngôn 22:19-21; Rô-ma 15:4; 2 Phi-e-rơ 1:19, 20.

 

Kinh Thánh, hay Lời của Chúa được viết ra, chứa tất cả các sách của Cựu và Tân Ước là:

Cựu Ước:

-Các sách Ngũ kinh:  Sáng thế ký, Xuất Ai Cập ký, Lê-vi ký, Dân số ký, Phục truyền luật lệ ký,

-Các sách Lịch sử: Giô-suê, Các quan xét, Ru-tơ, 1 Sa-mu-ên, 2 Sa-mu-ên, 1 Các vua, 2 Các vua, 1 Sử ký, 2 Sử ký, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, Ê-xơ-tê,

-Các sách Văn thơ: Gióp, Thi thiên, Châm ngôn, Truyền đạo, Nhã ca,

-Các sách Tiên tri: Ê-sai, Giê-rê-mi, Ca thương, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi.

Tân Ước:

Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng,

Công vụ,

Rô-ma, 1 Cô-rinh-tô, 2 Cô-rinh-tô, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, 1 Tê-sa-lô-ni-ca, 2 Tê-sa-lô-ni-ca, 1 Ti-mô-thê, 2 Ti-mô-thê, Tít, Phi-lê-môn,

Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, 1 Phi-e-rơ, 2 Phi-e-rơ, 1 Giăng, 2 Giăng, 3 Giăng, Giu-đe,

Khải huyền.

Tất cả những sách này đều được ban cho qua sự mặc khải của Chúa để làm tiêu chuẩn cho đức tin và cuộc sống.5

52 Ti-mô-thê 3:16.

Những quyển sách có tên gọi là Ngụy kinh không được ban cho bởi sự mặc khải thánh nên không được tính vào kinh sách của Kinh Thánh tiêu chuẩn. Do đó chúng không có thẩm quyền với Hội Thánh của Chúa và chỉ được xem và sử dụng như các ghi chép khác của con người.6

6Lu-ca 24:27, 44; Rô-ma 3:2.

Kinh Thánh có thẩm quyền yêu cầu con người phải có đức tin nơi Kinh Thánh. Thẩm quyền này không phụ thuộc vào lời chứng của bất cứ ai hay giáo hội nào ngoài chính tác giả duy nhất là Đức Chúa Trời, vì chính Ngài là lẽ thật. Do đó, chúng ta tiếp nhận Kinh Thánh bởi vì Kinh Thánh là Lời của Chúa.7

72 Phi-e-rơ 1:19-21; 2 Ti-mô-thê 3:16, 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13; 1 Giăng 5:9.

Lời chứng của Hội Thánh Chúa có thể thúc giục và thuyết phục chúng ta trân trọng và tôn kính Kinh Thánh. Hơn nữa, các nội dung về thiên đàng, quyền uy của hệ thống lẽ thật, phong cách oai nghi, sự thống nhất của tất cả các phần, trọng tâm hướng về dâng mọi vinh hiển lên cho Chúa, sự mặc khải trọn vẹn về phương pháp cứu rỗi duy nhất, và nhiều tiêu chuẩn khác không thể ví sánh và sự hoàn hảo trọn vẹn, tất cả đều mang đến vô vàn bằng chứng cho thấy Kinh Thánh là Lời của Chúa. Dù vậy, sự chắc chắn và tin tưởng hoàn toàn của chúng ta về lẽ thật không thể sai lệch và thẩm quyền của Kinh Thánh đến từ công tác của Đức Thánh Linh ở bên trong chúng ta làm chứng bởi Lời Chúa trong tấm lòng chúng ta.8

8Giăng16:13-14; 1 Cô-rinh-tô 2:10-12; Giăng 2:20-27.

Trong sự dạy dỗ của Chúa đề cập đến tất cả những gì cần thiết về vinh hiển Ngài và sự cứu rỗi, đức tin và cuộc sống của con người trong các tuyên bố chính xác hoặc kết luận quan trọng trong Kinh Thánh. Chưa có điều nào được thêm vào Kinh Thánh, dù là sự mặc khải mới từ Thánh Linh hay truyền thống con người.9

Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy sự soi sáng bên trong của Thần Linh Chúa là cần thiết để có sự hiểu biết cứu rỗi về những gì được mặc khải trong Lời Chúa.10 Chúng ta nhận ra có một số trường hợp liên quan đến nghi lễ thờ phượng Chúa và quản trị hội thánh được phổ biến trong các hoạt động của con người và các tổ chức được đặt ra bởi sự sáng tự nhiên và sự khôn ngoan Cơ đốc, kèm theo là những luật lệ chung của Lời Chúa, thì luôn cần được nghe theo.11

92 Ti-mô-thê 3:15-17; Ga-la-ti 1:8-9;

10Giăng 6:45; 1 Cô-rinh-tô 2:9-12;

111 Cô-rinh-tô 11:13-14; 1 Cô-rinh-tô 14:26, 40.

Có những dạy dỗ trong Kinh Thánh còn rõ hơn những dạy dỗ khác, và một số người hiểu các dạy dỗ nhiều hơn người khác.12 Tuy nhiên, những dạy dỗ về sự cứu rỗi phải được biết, tin, và tuân theo đều được bày ra rõ ràng và giải thích trong một phần của Kinh Thánh hoặc các phần khác mà cả người có học và không có học đều có khả năng hiểu biết đầy đủ bằng cách sử dụng những phương pháp thông thường.13

122 Phi-e-rơ 3:16;

13Thi thiên 19:7; Thi thiên 119:130.

Cựu Ước được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ, ngôn ngữ bản xứ của dân Y-sơ-ra-ên.14 Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp, tại thời điểm được viết ra đây là ngôn ngữ phổ biến tại nhiều quốc gia. Các sách được Chúa mặc khải trực tiếp và gìn giữ nguyên bản qua nhiều năm tháng bởi sự quan phòng đặc biệt của Ngài. Do đó, những sách này là lẽ thật và có thẩm quyền, bởi vậy trong tất cả các cuộc tranh cãi về tôn giáo, Hội Thánh phải biện luận hết sức để bảo vệ các sách này.15 Tất cả dân sự Chúa đều có quyền công bố Kinh Thánh và được lệnh đọc16 và tìm kiếm17 Kinh Thánh trong sự kính sợ Chúa. Không phải tất cả dân sự đều biết những ngôn ngữ nguyên bản này, nên Kinh Thánh đã được dịch ra ngôn ngữ phổ thông trong mỗi quốc gia mà Kinh Thánh được phổ biến.18 Theo cách này, Lời Chúa có thể nằm lòng trong mọi người, để họ có thể thờ phượng Ngài đúng cách và qua sự  an ủi của Kinh Thánh để có hi vọng.19

14Rô-ma 3:2.

15Ê-sai 8:20.

16Công vụ 15:15.

17Giăng 5:39.

181 Cô-rinh-tô 14:6, 9, 11, 12, 24, 28.

19Cô-lô-se 3:16.

Nguyên tắc không đổi để giải nghĩa Kinh Thánh là dùng chính Kinh Thánh. Do đó, khi có một câu hỏi về lẽ thật và ý nghĩa trọn vẹn của bất cứ phần nào trong Kinh Thánh (và mỗi phân đoạn chỉ có một chứ không phải nhiều ý nghĩa), thì càng phải hiểu trong sự sáng của các phân đoạn nói rõ hơn khác.20

202 Phi-e-rơ 1:20-21; Công vụ 15:15-16.

Kinh Thánh thẩm định và có tiếng nói tối hậu để quyết định tất cả mọi tranh cãi tôn giáo và để định giá tất cả mọi quy định của các hội đồng, quan điểm của các tác giả xưa, sự dạy dỗ của con người, và sự giải nghĩa của cá nhân. Trong Kinh Thánh, đức tin của chúng ta tìm thấy những phán quyết cuối cùng.21

21Ma-thi-ơ 22:29, 31-32; Ê-phê-sô 2:20; Công vụ 28:23

  1. ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ BA NGÔI

Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời duy nhất hằng sống và có thật.1 Ngài tự tồn tại2 và vô hạn trong bản thể và toàn hảo. Bản tánh Ngài không ai có thể hiểu được ngoài Ngài.3 Ngài là thần linh thánh khiết hoàn hảo.4 Ngài không ai thấy được và cũng không có thân thể, hay các bộ phận, hay cảm xúc thay đổi. Chỉ duy Ngài là bất tử, ngự trong sự sáng không ai có thể chạm tới.5 Ngài không đổi,6 vĩ đại,7 đời đời,8 không ví sánh nổi, năng quyền,9 vô hạn, hoàn toàn thánh khiết,10 khôn ngoan toàn hảo, tự do hoàn toàn, tuyệt đối. Ngài làm mọi điều theo ý muốn hoàn toàn công chính11 và không đổi của Ngài vì cớ vinh hiển Ngài.12 Ngài là Đấng yêu thương, giàu ân điển, thương xót, và kiên nhẫn nhất. Ngài tuôn đổ sự tốt lành và lẽ thật, tha thứ những vi phạm và tội lỗi. Ngài thưởng cho những ai chăm tìm kiếm Ngài.13 Ngài cũng hoàn toàn công chính và đáng kính sợ trong sự phán xét của Ngài.14 Chúa ghét mọi tội lỗi15 và chắc chắn sẽ không tha cho kẻ phạm tội.16

11 Cô-rinh-tô 8:4, 6; Phục truyền 6:4;

2Giê-rê-mi 10:10; Ê-sai 48:12;

3Xuất Ai-cập ký 3:14;

4Giăng 4:24;

51 Ti-mô-thê 1:17; Phục truyền 4:15-16;

6Ma-la-chi 3:6;

71 Các vua 8:27; Giê-rê-mi 23:33;

8Thi thiên 90:2;

9Sáng thế ký 17:1;

10Ê-sai 6:3;

11Thi thiên 115:3; Ê-sai 46:10;

12Châm ngôn 16:4; Rô-ma 11:36;

13Xuất Ai-cập ký 34:6-7; Hê-bơ-rơ 11:6;

14Nê-hê-mi 9:32-33;

15Thi thiên 5:5-6;

16Xuất Ai-cập ký 34:7; Na-hum 1:2-3.

Đức Chúa Trời có tất cả sự sống, 17 sự tốt lành18 phước hạnh19 ở bên trong Ngài và thuộc về chính Ngài; chỉ Ngài là đủ cả trong chính Ngài. Chúa không cần bất cứ tạo vật nào Ngài đã tạo ra cũng như không cần nhận lấy vinh hiển từ họ.20 Thay vào đó, Ngài bày tỏ vinh hiển Ngài trong họ, bởi họ, tới họ và trên họ. Chính Ngài là nguồn của mọi tạo vật, và mọi thứ đều đến từ Ngài, bởi Ngài, và hướng về Ngài.21 Ngài cai trị tuyệt đối mọi tạo vật để hành động qua họ, vì họ và trên họ như Ngài muốn.22 Trong mắt Ngài, mọi thứ đều được bóc trần và thấy rõ.23 Sự hiểu biết của Ngài thật vô tận và không thể sai. Ngài không phụ thuộc vào bất cứ tạo vật nào nên với Ngài không có gì là bất ngờ hoặc không chắc chắn.24 Ngài hoàn toàn thánh khiết trong mọi kế hoạch, công tác,25 và mạng lệnh của Ngài. Thiên sứ và các tạo vật dâng vinh hiển về  Ngài trong mọi sự thờ phượng,26 hầu việc và thuận phục Đấng Sáng Tạo và bất cứ điều gì Ngài muốn từ họ.

17Giăng 5:26;

18Thi thiên 148:13;

19Thi thiên 119:68;

20Gióp 22:2-3;

21Rô-ma 11:34-36;

22Đa-ni-ên 4:25, 34-35;

23Hê-bơ-rơ 4:13;

24Ê-xê-chi-ên 11:5; Công vụ 15:18;

25Thi thiên 145:17;

26Khải huyền 5:12-14.

Bản thể thánh và vô hạn này có ba thân vị; Đức Chúa Cha, Ngôi Lời hay Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh.27 Ba thân vị đều có cùng bản chất, năng quyền và sự đời đời, mỗi thân vị đều có trọn bản chất thánh mà không cần phải chia ra.28 Đức Chúa Cha không đến từ ai, cũng không thuộc về ai. Đức Chúa Con đời đời được sinh ra bởi Chúa Cha.29 Đức Thánh Linh đến từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.30 Cả ba thân vị đều vô hạn, không có sự bắt đầu nên chỉ có một Đức Chúa Trời không bị chia cắt trong bản chất và bản thể. Nhưng ba thân vị này được phân biệt bởi một vài đặc điểm khác biệt và các mối liên hệ cá nhân. Lẽ thật ba ngôi này là nền tảng của tất cả mọi mối quan hệ với Đức Chúa Trời và sự yên ủi của chúng ta phụ thuộc vào Ngài.

271 Giăng 5:7; Ma-thi-ơ 28:19; 2 Cô-rinh-tô 13:14;

28Xuất Ai Cập ký 3:14; Giăng 14:11; 1 Cô-rinh-tô 8:6;

29Giăng 1:14, 18;

30Giăng 15:26; Ga-la-ti 4:6.

 

  1. MẠNG LỆNH CỦA CHÚA

Từ cõi đời đời, Đức Chúa Trời đã lệnh cho mọi điều xảy ra mà không cần phải dựa trên bất cứ cái gì ngoài chính Ngài.1 Chúa làm điều này bởi sự khôn ngoan hoàn hảo và dự định thánh của ý muốn Ngài, tuỳ ý và không đổi. Nhưng Chúa làm điều này theo cách là Ngài không phải tác giả của tội lỗi cũng không đồng công với bất cứ ai trong tội lỗi của họ.2 Mạng lệnh này không ảnh hưởng đến ý muốn của các tạo vật hay lấy đi sự tự do hành động hoặc sự bất ngờ của các nguyên nhân gián tiếp. Ngược lại, chúng được lập nên bởi mạng lệnh Chúa.3 Trong mạng lệnh này, sự khôn ngoan của Chúa được bày tỏ khi Ngài hướng dẫn mọi điều, để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho tín nhân cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!4

1Ê-sai 46:10; Ê-phê-sô 1:11; Hê-bơ-rơ 6:17; Rô-ma 9:15, 18.

2Gia-cơ 1:13; 1 Giăng 1:5.

3Công vụ 4:27-28; Giăng 19:11.

4Dân số ký 23:19; Ê-phê-sô 1:3-5.

Chúa biết mọi điều có thể xảy ra dưới bất kỳ một điều kiện đưa đến nào.5 Tuy nhiên, mạng lệnh của Ngài về bất cứ điều gì không dựa trên điều Ngài thấy trước trong tương lai hay thấy trước nó sẽ xảy ra dưới từng điều kiện cụ thể.6

5Công vụ 15:17.

6Rô-ma 9:11, 13, 16, 18.

Bởi mạng lệnh của Chúa và để bày tỏ vinh hiển Ngài, một số con người và thiên sứ đã được định trước (hay phong chức trước) cho sự sống đời đời, được ban cho Chúa Giê-su,7 để ngợi khen ân điển vinh quang của Ngài.8 Những người khác thì bị bỏ lại để sống trong tội lỗi họ, đi đến sự phán xét, để ngợi khen sự công chính vinh quang của Ngài.9

71 Ti-mô-thê 5:21; Ma-thi-ơ 25:34.

8Ê-phê-sô 1:5-6.

9Rô-ma 9:22-23; Giu-đe 4.

Những thiên sứ và con người đã được định trước và phong chức trước đã được thiết lập riêng biệt và không thể thay đổi, và số lượng là cố định và chắc chắn không thể tăng giảm.10

102 Ti-mô-thê 2:19. Giăng 13:18.

Những người được định trước để sống được chọn bởi Chúa trước khi tạo dựng thế giới, dựa theo mục đích đời đời không đổi, và ý tưởng bí mật và ý muốn tốt lành của Ngài. Ngài chọn họ trong Đấng Christ cho vinh hiển đời đời thánh khiết, là kết quả của tình yêu và ân điển miễn phí của Ngài,11 mà không cần điều gì từ họ để làm điều kiện hay lý do khiến Ngài làm vậy.12

11Ê-phê-sô 1:4, 9, 11; Rô-ma 8:30; 2 Ti-mô-thê 1:9; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:9.

12Rô-ma 9:13, 16; Ê-phê-sô 2:5, 12.

Đức Chúa Trời đã chỉ định người được chọn cho vinh hiển, nên Ngài đã có mục đích đời đời và hoàn toàn miễn phí theo ý muốn được định trước theo mọi cách.13 Do đó, những ai được chọn, vốn bị sa ngã trong A-đam, được chuộc mua bởi Đấng Christ14 và được gọi đến đức tin nơi Đấng Christ bởi công tác của Đức Thánh Linh trong thời điểm thích hợp. Họ được xưng công chính, nhận nuôi, thánh hóa15 và được gìn giữ bởi năng quyền Ngài từ đức tin đến sự cứu rỗi.16 Không ai ngoài người được chọn được chuộc mua bởi Đấng Christ, hoặc được gọi, xưng công chính, nhận nuôi, thánh hoá và được cứu.17

131 Phi-e-rơ 1:2; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13.

141 Tê-sa-lô-ni-ca 5:9-10.

15Rô-ma 8:30; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13.

161 Phi-e-rơ 1:5.

17Giăng 10:26; 17:9; 6:64.

Các giáo lý về những bí mật cao siêu của thuyết tiền định cần được quan tâm đặc biệt cẩn thận, để những ai để tâm đến ý muốn Chúa được mặc khải trong Lời Chúa và vâng phục Ngài có sự bảo đảm về sự lựa chọn đời đời của họ bằng cách chắc chắn về sự kêu gọi họ có. 18Như vậy, giáo lý này sẽ mang tới lý do để ngợi khen,19 tôn kính, và ngưỡng mộ Chúa, cũng như hạ mình,20 bền đỗ và yên ủi lớn cho tất cả những ai thật tâm vâng theo phúc âm.21

181 Tê-sa-lô-ni-ca 1:4-5; 2 Phi-e-rơ 1:10.

19Ê-phê-sô 1:6; Rô-ma 11:33.

20Rô-ma 11:5-6, 20. Lu-ca 10:20.21

 

  1. SỰ SÁNG TẠO

Từ thuở ban đầu, Đức Chúa Trời là Chúa Cha, Chúa Con, Đức Thánh Linh1 đã muốn tạo ra thế gian và mọi sự trong đó, cả vật thấy được và không thấy được, trong sáu ngày, và mọi sự đều tốt lành.2 Ngài làm điều này để bày tỏ vinh quang của năng quyền đời đời, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Ngài.3

 

 

1Giăng 1:2-3; Hê-bơ-rơ 1:2; Gióp 26:13.

2Cô-lô-se 1:16; Sáng thế ký 1:31.

3Rô-ma 1:20.

Sau khi Chúa tạo nên tất cả những tạo vật khác, Ngài tạo nên con người. Ngài tạo ra người nam và người nữ,4 là những linh hồn có lý trí và bất tử,5 để khiến họ phù hợp với cuộc sống hướng về Chúa là lý do họ được tạo ra. Họ được tạo nên theo hình ảnh Chúa, được ban cho sự khôn ngoan, công chính và sự thánh khiết thật.6 Họ có luật pháp Chúa được viết trong tấm lòng họ7 và năng quyền để làm theo. Dù vậy, họ vẫn có thể vi phạm luật pháp bởi họ được tự do theo ý riêng vốn là thứ luôn thay đổi.8

4Sáng thế ký 1:27.

5Sáng thế ký 2:7.

6Truyền đạo 7:29; Sáng thế ký 1:26.

7Rô-ma 2:14-15.

8Sáng thế ký 3:6.

Ngoài luật pháp được viết trong lòng, họ còn nhận lấy mạng lệnh không được ăn trái từ cây nhận biết điều thiện và ác.9 Chỉ cần tuân theo thì họ sẽ được hạnh phúc trong mối thông công với Chúa và có thẩm quyền cai trị trên mọi tạo vật.10

9Sáng thế ký 2:17;

10Sáng thế ký 1:26, 28.

 

  1. SỰ DẪN DẮT THÁNH

Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo tốt lành của mọi sự, trong năng quyền vô hạn của Ngài cùng sự khôn ngoan, gìn giữ, chỉ dẫn, sắp xếp và cai trị mọi tạo vật và mọi điều,1 từ lớn nhất đến nhỏ nhất,2 bởi sự khôn ngoan hoàn hảo và sự dẫn dắt thánh, có mục đích trong sự sáng tạo của Ngài. Ngài cai trị theo sự biết trước không thể sai lệch, cùng sự tự hữu, sự khôn ngoan không đổi của ý muốn Ngài. Sự chu cấp của Ngài đưa dắt đến sự ngợi khen vinh quang của sự khôn ngoan, năng quyền, công chính, tốt lành và thương xót đời đời của Ngài.3

1Hê-bơ-rơ 1:3; Gióp 38:11; Ê-sai 46:10-11; Thi thiên 135:6.

2Ma-thi-ơ 10:29-31.

3Ê-phê-sô 1:11.

Chắc chắn mọi sự đều sẽ qua đi, trong mối liên hệ đến sự biết trước và mạng lệnh của Chúa,4 Ngài là nguyên cớ đầu tiên. Do đó, không có gì vô tình xảy ra với bất cứ ai mà ở ngoài sự sắp xếp của Chúa.5 Nhưng cũng bởi sự dẫn dắt đó, Chúa khiến mọi sự xảy ra theo cách tự nhiên của nguyên nhân thứ hai, dù cần thiết, hay ý chí tự do hay để đáp ứng những nguyên nhân khác.6

4Công vụ 2:23.

5Châm ngôn 16:33.

6Sáng thế ký 8:22.

Trong sự dẫn dắt của Chúa, Ngài tận dụng các phương tiện,7 dù Ngài dễ dàng hành động mà không cần chúng,8 bỏ xa chúng9 hoặc nghịch với chúng.10  Ngài hành động theo ý muốn Ngài.

7Công vụ 27:31, 44; Ê-sai 55:10-11.

8Ô-sê 1:7.

9Rô-ma 4:19-21.

10Đa-ni-ên 3:27.

Năng quyền lớn lao, sự khôn ngoan không dò thấu, và sự tốt lành đời đời của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ trong sự dẫn dắt, mà kế hoạch tể trị của Ngài bao gồm cả sự sa ngã đầu tiên và tất cả những hành động tội lỗi khác của cả thiên sứ và con người.11 Sự dẫn dắt của Chúa trên các hành động tội lỗi không diễn ra chỉ đơn giản bằng sự cho phép. Thay vào đó, Chúa giới hạn cách khôn ngoan và quyền năng nhất, hay nói cách khác là sắp xếp và cai trị các hành động tội lỗi.12 Thông qua các phương pháp sắp xếp phức tạp, Ngài cai trị các hành động tội lỗi để hoàn thành các mục đích thánh khiết hoàn hảo.13 Nhưng Ngài làm điều này theo cách để tội lỗi trong các việc làm của tạo vật chỉ đến từ chúng mà không phải từ Ngài. Vì Chúa thật thánh khiết và công chính, Ngài không thể tạo ra hay ủng hộ tội lỗi.14

11Rô-ma 11:32-34; 2 Sa-mu-ên 24:1, 1 Sử ký 21:1.

122 Các vua 19:28; Thi thiên 76:10.

13Sáng thế ký 50:20; Ê-sai 10:6-7, 12.

14Thi thiên 50:21; 1 Giăng 2:16.

Đức Chúa Trời của ân điển, công chính, khôn ngoan hoàn hảo thường cho phép con cái Ngài có lúc kinh nghiệm các cám dỗ khác nhau và tội lỗi của tấm lòng họ. Ngài làm điều này để trừng phạt họ vì tội lỗi trước đó để khiến họ nhận biết sức mạnh ẩn giấu của sự tha hóa và dối trá của tấm lòng họ để họ hạ mình. Ngài cũng làm điều này để dẫn dắt họ nhanh chóng tiến tới sự phụ thuộc vào Ngài để gìn giữ họ, để khiến họ chú ý hơn về hậu quả tương lai có thể dẫn đến và vì những mục đích công chính và thánh thiện khác.15 Nên bất kỳ điều gì xảy ra tới những người được chọn đều bởi sự sắp xếp của Chúa bởi cớ vinh hiển của Ngài và vì tốt cho họ.16

152 Sử ký 32:25-26, 31; 2 Cô-rinh-tô 12:7-9.

16Rô-ma 8:28.

 

Đức Chúa Trời là Thẩm Phán công chính, đôi khi  che mắt và làm cứng lòng những con người không tin kính và xấu xa vì tội lỗi của họ.17 Ngài giữ lại ân điển khỏi họ, kẻo họ được soi sáng trong sự hiểu biết và có tấm lòng được làm mới lại.18 Không chỉ vậy mà đôi khi Ngài còn lấy đi những ân tứ họ đã có19 và mở ra một tình huống được bản chất tội lỗi của họ chuyển thành cơ hội phạm tội.20 Hơn thế, Ngài còn phó họ cho sự tham lam của họ, sự cám dỗ của thế gian và quyền lực của Sa-tan,21 cho nên họ tự làm cứng lòng mình khi phản ứng lại sự ảnh hưởng tương tự mà Chúa sử dụng để làm mềm lòng người khác.22

17Rô-ma 1:24-26, 28; Rô-ma 11:7-8.

18Phục truyền luật lệ ký 29:4.

19Ma-thi-ơ 13:12.

20Phục truyền luật lệ ký 2:30; 2 Các vua 8:12-13.

21Thi thiên 81:11-12; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:10-12.

22Xuất Ai Cập ký 8:15, 32; Ê-sai 6:9-10; 1 Phi-e-rơ 2:7-8.

 

Sự dẫn dắt của Chúa nói chung bao gồm tất cả tạo vật nhưng theo một cách đặc biệt để chăm sóc Hội Thánh và dẫn dắt tất cả mọi điều tiến đến sự tốt lành.23

231 Ti-mô-thê 4:10; A-mốt 9:8-9; Ê-sai 43:3-5.

 

 

 

  1. SỰ SA NGÃ CỦA NHÂN LOẠI CÙNG TỘI LỖI VÀ SỰ TRỪNG PHẠT

Đức Chúa Trời tạo ra con người ngay thẳng và hoàn hảo. Ngài ban cho họ luật pháp công chính đáng lẽ phải dẫn đến sự sống nếu họ làm theo nhưng họ phải chết nếu họ vi phạm.1 Vậy mà họ không giữ mình đủ lâu ở vị trí cao trọng. Sa-tan lợi dụng một con rắn để lừa dối Ê-va. Ê-va phạm tội dẫn đến A-đam cũng phạm tội theo. A-đam hành động không phải do tác động bên ngoài mà chủ động vi phạm luật pháp đã có khi họ được tạo nên và mạng lệnh được trao, bằng cách ăn trái cấm.2 Đức Chúa Trời với ý tưởng khôn ngoan và thánh khiết của Ngài, cho phép điều này xảy ra, bởi vì Ngài có mục đích cho phép hành động đó diễn ra vì cớ vinh hiển của chính Ngài.

1Sáng thế ký 2:16-17.

2Sáng thế ký 3:12-13; 2 Cô-rinh-tô 11:3.

 

Bởi tội lỗi này mà tổ phụ đầu tiên của chúng ta sa ngã khỏi sự công chính ban đầu và sự thông công với Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng sa ngã theo, và bởi vậy mà sự chết đến trên hết thảy chúng ta.3 Tất cả đều chết trong tội lỗi4 và hoàn toàn bị nhiễm bẩn mọi phần của linh hồn và thân thể.5

3Rô-ma 3:23.

4Rô-ma 5:12.

5Tít 1:15; Sáng thế ký 6:5; Giê-rê-mi 17:9; Rô-ma 3:10-19.

 

Đức Chúa Trời đặt để tổ phụ đầu tiên làm gốc rễ và đại diện cho toàn thể nhân loại. Nhưng họ đã phạm tội, vì vậy tội lỗi của họ phải bị tính sổ, và bản chất sa ngã của họ bị chuyển giao đến tất cả con cháu và dòng dõi ra từ họ.6 Con cháu của họ bị hoài thai trong tội lỗi7 và tự nhiên trở thành con cái của sự giận giữ,8 nô lệ của tội lỗi, kẻ chung phần với sự chết9 và tất cả những sự khổ đau – thuộc linh, thế gian, và đời đời – nếu Chúa Giê-su không giải phóng họ.10

6Rô-ma 5:12-19; 1 Cô-rinh-tô 15:21-22, 45, 49.

7Thi thiên 51:5; Gióp 14:4.

8Ê-phê-sô 2:3.

9Rô-ma 6:20; 5:12.

10Hê-bơ-rơ 2:14-15; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:10.

Tất cả các vị phạm thực sự dấy lên từ sa ngã ban đầu này.11 Bởi thế chúng ta bị tiếng xấu, bất lực, và ngược với tất cả những gì tốt lành, và chúng ta hoàn toàn nghiêng về những điều xấu xa.12

11Gia-cơ 1:14-15; Ma-thi-ơ 15:19.

12Rô-ma 8:7; Cô-lô-se 1:21.

 

Trong đời này, bản chất sa ngã còn tồn tại trong những người được tái sinh.13 Mặc dù đã được tha thứ qua Chúa Giê-su, nhưng cả bản chất sa ngã và tất cả các hành động đến từ nó đều có thật và thực sự tội lỗi.14

13Rô-ma 7:18, 23; Truyền đạo 7:20; 1 Giăng 1:8.

14Rô-ma 7:23-25; Ga-la-ti 5:17.

 

 

 

  1. GIAO ƯỚC CỦA CHÚA

Dù mọi tạo vật có lý trí đều có trách nhiệm vâng theo Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo của họ, khoảng cách giữa Chúa và tạo vật lớn đến nỗi chúng không bao giờ có thể nhận được phần thưởng sự sống trừ khi Chúa tự hạ mình xuống. Ngài muốn bày tỏ điều này thông qua giao ước.1

1Lu-ca 17:10; Gióp 35:7-8.

Bởi nhân loại tự đặt mình ở dưới sự rủa sả của luật pháp khi họ sa ngã, chỉ có giao ước ân điển mới làm vui lòng Chúa.2 Trong giao ước này, Ngài ban cho tội nhân sự sống và sự cứu rỗi qua Chúa Giê-su Christ. Về phần họ thì Ngài muốn họ có đức tin trong Ngài để họ được cứu3 và Ngài hứa ban Đức Thánh Linh cho tất cả những ai được kéo đến sự sống đời đời, để khiến họ sẵn lòng và tin.4

2Sáng thế ký 2:17; Ga-la-ti 3:10; Rô-ma 3:20-21.

3Rô-ma 8:3; Mác 16:15-16; Giăng 3:16.

4Ê-xê-chi-ên 36:26-27; Giăng 6:44-45; Thi thiên 110:3.

 

Giao ước này được bày tỏ trong phúc âm. Lần đầu đã được bày tỏ cho A-đam trong lời hứa cứu rỗi thông qua dòng dõi người nữ.5 Sau đó giao ước được bày tỏ dần dần đến khi sự mặc khải trọn vẹn được ứng nghiệm trong Tân Ước.6 Giao ước này dựa trên thoả thuận đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con về sự cứu chuộc của những người được chọn.7 Chỉ bởi ân điển của giao ước này mà những người được cứu từ thế hệ sau của A-đam sa ngã nhận được sự sống và phước hạnh đời đời thông qua Chúa Giê-su. Nhân loại hiện nay không thể được Chúa tiếp nhận như Chúa đã tiếp nhận A-đam khi ông còn vô tội.8

5Sáng thế ký 3:15.

6Hê-bơ-rơ 1:1.

72 Ti-mô-thê 1:9; Tít 1:2.

8Hê-bơ-rơ 11:6, 13; Rô-ma 4:1-2; Công vụ 4:12; Giăng 8:56.

  1. CHRISTĐẤNG TRUNG BẢO

Đức Chúa Trời trong mục đích đời đời của Ngài, chọn và tiến cử Chúa Giê-su, Con Một của Ngài, theo như giao ước được thiết lập, để trở thành Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và con người.1 Đức Chúa Trời chọn Chúa Giê-su để trở thành tiên tri,2 thầy tế lễ3 và nhà vua,4 để làm Đầu và Đấng Cứu Thế của Hội Thánh.5 Ngài thừa kế mọi điều6 và là Đấng thẩm phán của thế gian.7 Từ lúc đời đời, Đức Chúa Cha đã ban cho Đức Chúa Con một dân sự để làm con cái Ngài. Đến thời điểm, những người này sẽ được mua chuộc, kêu gọi, thánh hóa, xưng công chính và được Ngài tôn cao.8

1Ê-sai 42:1; 1 Phi-e-rơ 1:19-20.

2Công vụ 3:22.

3Hê-bơ-rơ 5:5-6.

4Thi thiên 2:6; Lu-ca 1:33.

5Ê-phê-sô 1:22-23.

6Hê-bơ-rơ 1:2.

7Công vụ 17:31.

8Ê-sai 53:10; Giăng 17:6; Rô-ma 8:30.

Con của Đức Chúa Trời, thân vị thứ hai trong Ba Ngôi chính là Đức Chúa Trời chân thật và đời đời. Ngài là sự sáng của vinh quang Cha, có cùng bản thể và bình đẳng với Cha. Ngài tạo ra thế giới và cai trị mọi thứ Ngài tạo ra. Đến thời điểm chín muồi, chính Ngài mang lấy bản chất con người, với tất cả những đặc điểm cần có và cả điểm yếu thường có của con người9 nhưng không phạm tội.10 Ngài được thụ thai bởi Đức Thánh Linh trong tử cung của Trinh nữ Ma-ri. Thánh Linh giáng xuống trên nàng và năng quyền của Đấng Tối Cao bao phủ nàng. Như vậy, Ngài được sinh ra bởi một người nữ từ chi phái Giu-đa, dòng dõi của Áp-ra-ham và Đa-vít để ứng nghiệm Kinh Thánh.11 Hai thân vị Cha và Con, đều hoàn hảo và có đặc tính riêng biệt, hiệp lại cùng nhau trong một bản thể, mà không biến đổi lẫn nhau hay hoà trộn với nhau để sản sinh ra một bản thể khác biệt hay hòa trộn khác. Ngài thực sự là Đức Chúa Trời và cũng là Con người, và chỉ có Đấng Christ là Đấng Trung Bảo duy nhất giữa Đức Chúa Trời và con người.12

9Giăng 1:14; Ga-la-ti 4:4.

10Rô-ma 8:3; Hê-bơ-rơ 2:14, 16-17; Hê-bơ-rơ 4:15.

11Ma-thi-ơ 1:22-23; Lu-ca 1:27, 31, 35.

12Rô-ma 9:5; 1 Ti-mô-thê 2:5.

Đức Chúa Giê-su, trong thân thể con người được hiệp nhất với Đức Chúa Trời thánh khiết theo cách này trong Con Một, được thánh hóa và xức dầu vô hạn bởi Đức Thánh Linh.13 Ngài có trong chính Ngài mọi kho báu của sự khôn ngoan và hiểu biết.14 Đức Cha muốn mọi sự đầy trọn ngự trong Con Ngài15 để  trở nên thánh khiết, vô hại, không thể bị ô uế,16  đầy ân điển và lẽ thật.17 Ngài hoàn toàn đủ tiêu chuẩn để mang lấy trách nhiệm của người trung bảo và người bảo lãnh.18 Ngài không tự gánh lấy trách nhiệm này mà được kêu gọi bởi Cha,19 là Đấng đã đặt để mọi quyền năng và sự phán xét trong tay Ngài và ra lệnh cho Ngài thực hiện.20

13Thi thiên 45:7; Công vụ 10:38; Giăng 3:34.

14Cô-lô-se 2:3.

15Cô-lô-se 1:19.

16Hê-bơ-rơ 7:26.

17Giăng 1:14.

18Hê-bơ-rơ 7:22.

19 Hê-bơ-rơ 5:5.

20Giăng 5:22, 27; Ma-thi-ơ 28:18; Công vụ 2:36.

Đức Chúa Giê-su sẵn lòng mang lấy trách nhiệm này.21 Để làm vậy, Ngài phải sinh ra dưới luật pháp22 và hoàn thành nó cách trọn vẹn. Ngài cũng trải qua sự trừng phạt mà lẽ ra chúng ta đáng phải nhận và chịu khổ nạn.23 Ngài trở nên tội lỗi và bị rủa sả vì chúng ta.24 Ngài phải chịu đựng sự đau khổ nặng nề trong linh hồn và chịu tra tấn đau đớn trong thân thể.25 Ngài bị đóng đinh và chết và ở trong tình trạng chết nhưng thân thể không bị thối rữa.26 Vào ngày thứ ba Ngài sống lại từ kẻ chết27 trong cùng một thân thể đã bị tra tấn.28 Cũng trong thân thể này, Ngài trở về thiên đàng,29 nơi Ngài ngồi bên tay hữu của Cha, cầu thay cho chúng ta.30 Ngài sẽ trở lại để phán xét con người và thiên sứ trong ngày chung cuộc.31

21Thi thiên 40:7-8; Hê-bơ-rơ 10:5-10; Giăng 10:18.

22Ga-la-ti 4:4; Ma-thi-ơ 3:15.

23Ga-la-ti 3:13; Ê-sai 53:6; 1 Phi-e-rơ 3:18.

242 Cô-rinh-tô 5:21.

25Ma-thi-ơ 26:37-38; Lu-ca 22:44; Ma-thi-ơ 27:46.

26Công vụ 13:37.

271 Cô-rinh-tô 15:3-4.

28Giăng 20:25, 27.

29Mác 16:19; Công vụ 1:9-11.

30Rô-ma 8:34; Hê-bơ-rơ 9:24.

31Công vụ 10:42; Rô-ma 14:9-10; Công vụ 1:11; 1 Phi-e-rơ 2:4.

Chúa Giê-su đã hoàn toàn thỏa mãn sự công chính của Đức Chúa Trời, nhận lấy sự phục hòa, và mua lấy của thừa kế đời đời trong vương quốc thiên đàng cho tất cả những ai được trao cho Ngài bởi Chúa Cha.32 Ngài đã làm trọn sứ mạng này bởi sự vâng phục trọn vẹn và dâng chính mình làm của lễ, một lần đủ cả để dâng lên Đức Chúa Trời thông qua Đức Thánh Linh đời đời.33

32Giăng 17:2; Hê-bơ-rơ 9:15.

33Hê-bơ-rơ 9:14; Hê-bơ-rơ 10:14; Rô-ma 3:25-26.

Cái giá của sự cứu chuộc không thực sự được trả bởi Đấng Christ cho đến khi Ngài hóa thân thành người. Nhưng đức hạnh, hiệu lực và lợi ích của sự cứu chuộc đã được truyền đến những người được chọn trong mọi thời đại từ thuở ban đầu của thế giới, trong và qua các lời hứa. Các lời tiên tri đã bày tỏ Ngài là dòng dõi sẽ dẫm đạp lên đầu con rắn34 và là Chiên Con bị giết từ thuở lập nền thế giới.35 Ngài là Đấng mà hôm qua, hôm nay và đời đời không thay đổi.36

341 Cô-rinh-tô 4:10; Hê-bơ-rơ 4:2; 1 Phi-e-rơ 1:10-11.

35Khải huyền 13:8.

36Hê-bơ-rơ 13:8.

Trong công tác trung bảo, Đấng Christ hành động theo cả hai bản thể Trời và Người, mỗi bản thể làm những điều thuộc riêng mình. Dù vậy, bởi sự hiệp nhất trong Ngài là Đấng Thần –Nhân. Khi một thân vị có cùng bản chất với một thân vị khác thì đôi khi Kinh Thánh gán cho là ở dưới chức vụ của một vị thân vị khác.37

 

37Giăng 3:13; Công vụ 20:28.

Đối với những người Đấng Christ ban cho sự cứu chuộc đời đời, Ngài chắc chắn đã làm trọn điều này. Ngài cầu thay cho họ,38 hiệp nhất họ với Ngài bằng Thánh Linh. Ngài thuyết phục họ tin và vâng theo39 và cai trị tấm lòng họ bởi Lời và Thánh Linh.40 Ngài đã chiến thắng tất cả kẻ thù bằng năng quyền và sự khôn ngoan mạnh mẽ của Ngài.41  Đấng Christ chuyển giao điều này cho những người thuộc về Ngài. Những điều này đến từ ân điển miễn phí chứ không phải nhờ bất cứ điều kiện nào cần  được thấy trước trong tín nhân.42

38Giăng 6:37; Giăng 10:15-16; Giăng 17:9; Rô-ma 5:10.

39Giăng 17:6; Ê-phê-sô 1:9; 1 Giăng 5:20.

40Rô-ma 8:9, 14.

41Thi thiên 110:1; 1 Cô-rinh-tô 15:25-26.

42Giăng 3:8; Ê-phê-sô 1:8.

Công tác của Đấng trung bảo giữa Đức Chúa Trời và nhân loại chỉ dành cho Đấng Christ, là tiên tri, thầy tế lễ và vua của Hội Thánh. Chức vụ này không thể được chuyển giao từ Ngài cho ai, dù là toàn bộ hay chỉ một phần.43

431 Ti-mô-thê 2:5

Các công tác của Chúa Giê-su là cần thiết. Bởi vì chúng ta không biết hết mọi điều nên chúng ta cần chức vụ tiên tri của Chúa Giê-su.44 Chúng ta xa lạ với Đức Chúa Trời và không hoàn hảo hầu việc Ngài, chúng ta cần chức vụ thầy tế lễ của Chúa Giê-su để được chấp nhận  phục hoà và ra mắt Đức Chúa Trời.45 Vì chúng ta là những kẻ thù nghịch và hoàn toàn không thể quay trở lại với Đức Chúa Trời, nên để chúng ta được giải cứu và được bảo vệ khỏi những kẻ thù thuộc linh, chúng ta cần công tác của Vua Giê-su để  đánh bại, giải cứu chúng ta khỏi kẻ thù và bảo toàn chúng ta cho vương quốc thiên đàng của Ngài.46

44Giăng 1:18.

45Cô-lô-se 1:21; Ga-la-ti 5:17.

46Giăng 16:8; Thi thiên 110:3; Lu-ca 1:74-75.

 

 

  1. Ý CHÍ TỰ DO

Đức Chúa Trời trao cho con người ý chí tự do và năng lực để lựa chọn mà không bởi bị ép buộc hay do bản chất thiện ác vốn có.1

1Ma-thi-ơ 17:12; Gia-cơ 1:14; Phục truyền luật lệ ký 30:19.

Nhân loại trong tình trạng vô tội có sự tự do và khả năng để muốn  làm điều tốt và làm đẹp lòng Chúa.2 Nhưng tâm thái con người không ổn định, nên họ có thể đi sai lệch.3

2Truyền đạo 7:29. 3Sáng thế ký 3:6.

Nhân loại bởi rơi vào tình trạng tội lỗi, đã hoàn toàn mất đi mọi khả năng chọn những điều tốt lành thuộc linh đi kèm với sự cứu rỗi.4 Do đó, con người với bản chất tự nhiên hoàn toàn chống lại sự tốt lành thuộc linh và chết trong tội lỗi,5 nên họ không thể biến đổi chính mình bằng sức riêng hay chuẩn bị bản thân cho sự biến đổi.6

4Rô-ma 5:6; Rô-ma 8:7. 5Ê-phê-sô 2:1, 5. 6Tít 3:3-5; Giăng 6:44.

Khi Đức Chúa Trời biến đổi tội nhân và chuyển họ về với ân điển, Ngài giải phóng họ khỏi sự ràng buộc tự nhiên với tội lỗi,7 và chỉ bởi ân điển, Ngài khiến họ muốn và tự nguyện làm những điều tốt lành thuộc linh.8 Nhưng bởi sự sa ngã còn đó, họ không có khả năng làm điều lành lại còn muốn làm điều xấu.9 Điều này được khắc phục khi tín nhân hoàn toàn lệ thuộc và đầu phục Chúa Giê-su.

7Cô-lô-se 1:13; Giăng 8:36. 8Phi-líp 2:13. 9Rô-ma 7:15, 18-19, 21, 23.

Chỉ khi ở trong vinh hiển của Đức Chúa Trời thì ý muốn con người mới trở nên hoàn hảo và tự nguyện hướng tới những điều tốt đẹp.10

10Ê-phê-sô 4:13.

 

 

  1. SỰ KÊU GỌI HIỆU QUẢ

Trong thời điểm được định, Đức Chúa Trời muốn kêu gọi,1 qua Lời và Thánh Linh Ngài, những người đã được định trước cho sự sống. Ngài gọi họ ra khỏi bản chất tội lỗi và sự chết để đi tới sự ăn năn và tiếp nhận ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su.2 Ngài soi sáng tâm trí thuộc linh để họ hiểu những điều thuộc về Ngài.3 Ngài lấy đi tấm lòng bằng đá và ban cho họ tấm lòng bằng thịt.4 Ngài đổi mới ý muốn của họ và bằng năng quyền mạnh mẽ, Ngài khiến họ xoay đến điều tốt lành và dẫn dắt họ đến với Chúa Giê-su.5 Nhưng Ngài làm những điều này theo cách để họ hoàn toàn tự nguyện đến với  ân điển của Ngài. Ngài cho họ tự do lựa chọn.6

1Rô-ma 8:30; Rô-ma 11:7; Ê-phê-sô 1:10-11; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14. 2Ê-phê-sô 2:1-6. 3Công vụ 26:18; Ê-phê-sô 1:17-18. 4Ê-xê-chi-ên 36:26. 5Phục truyền luật lệ ký 30:6; Ê-xê-chi-ên 36:27; Ê-phê-sô 1:19. 6Thi thiên 110:3; Nhã ca 1:4.

 

Sự kêu gọi hiệu quả này chỉ đến từ ân điển tự do và đặc biệt của Chúa mà không phải đến từ bất cứ điều gì được thấy trước trong những người được gọi. Sự kêu gọi này cũng đến mà không phụ thuộc vào hành động từ phía họ;7 họ hoàn toàn bị động trong điều này. Họ đã chết trong tội lỗi và vi phạm đến khi họ được sống động và làm mới lại bởi Đức Thánh Linh.8 Bởi điều này họ có thể đáp lại lời kêu gọi và nhận lấy ân điển đã được trao. Sự đáp ứng này được thực hiện trong cùng năng quyền đã khiến Đấng Christ sống lại từ cõi chết.9

72 Ti-mô-thê 1:9; Ê-phê-sô 2:8. 81 Cô-rinh-tô 2:14; Ê-phê-sô 2:5; Giăng 5:25. 9Ê-phê-sô 1:19-20.

Những em bé được chọn nhưng đã chết khi còn nhỏ sẽ được tái sinh và được cứu bởi Đấng Christ qua Đức Thánh Linh,10 Đấng hành động vào thời điểm thích hợp và tại nơi Ngài muốn.11 Cũng giống như vậy với những người được chọn là những người được sanh bởi Thánh Linh.

 

10Giăng 3:3, 5-6. 11Giăng 3:8

Những người không được chọn sẽ không và không thể thực sự đến với Đấng Christ và do đó không thể được cứu, bởi vì họ không được kéo đến với Cha.12  Họ có thể được kêu gọi qua công tác tôn giáo và có lẽ đã ghi nhận một số hành động của Đức Thánh Linh, nhưng vẫn không  được cứu.13 Không ai có thể được cứu mà không tiếp nhận đạo Đấng Christ, dù họ có nhiệt thành tu dưỡng nếp sống  tự nhiên và theo đuổi sự dạy dỗ của các tôn giáo.14

12Giăng 6:44-45, 65; 1 Giăng 2:24-25. 13Ma-thi-ơ 22:14; Ma-thi-ơ 13:20-21; Hê-bơ-rơ 6:4-5. 14Công vụ 4:12; Giăng 4:22; Giăng 17:3.

 

 

  1. XƯNG CÔNG CHÍNH

Những người Đức Chúa Trời đã gọi thì Ngài cũng xưng công chính.1 Ngài làm điều này, không phải bằng cách truyền sự công chính cho họ mà bằng cách tha thứ tội lỗi họ và kể và chấp nhận họ là công chính.2 Ngài làm điều này chỉ bởi cớ Đấng Christ mà không phải bởi bất cứ điều gì sinh ra trong họ hay được thực hiện bởi họ.3 Chúa không kể đức tin, hành động tin, hay bất cứ sự vâng theo phúc âm nào để nhận họ là người công chính. Thay vào đó, Ngài coi hành động vâng phục toàn bộ luật pháp và chủ động áp dụng sự chết của Đấng Christ là sự công chính toàn vẹn và duy nhất bởi đức tin dành cho họ.4 Đức tin này không thể tự tạo nên mà là ân ban/món quà miễn phí của Đức Chúa Trời.5

1Rô-ma 3:24; 8:30. 2Rô-ma 4:5-8; Ê-phê-sô 1:7. 31 Cô-rinh-tô 1:30-31; Rô-ma 5:17-19. 4Phi-líp 3:8-9; Ê-phê-sô 2:8-10. 5Giăng 1:12; Rô-ma 5:17.

Đức tin tiếp nhận Đấng Christ và sự công chính của Ngài là công cụ duy nhất để được xưng công chính.6 Nhưng sự xưng công chính không thể tự xảy ra bên trong người được xưng công chính, mà phải luôn đi kèm với ân điển cứu chuộc khác. Đó không phải là đức tin chết nhưng là đức tin hành động qua tình yêu thương.7

6Rô-ma 3:28. 7Ga-la-ti 5:6; Gia-cơ 2:17, 22, 26.

Bởi vâng phục và chết đi, Đấng Christ đã trả hết món nợ của tất cả những người được xưng công chính. Ngài thế chỗ họ để nhận hình phạt mà họ đáng phải nhận. Bởi Ngài phó chính mình khi đổ huyết trên thập tự giá, Ngài trở nên Đấng làm trọn luật pháp, thỏa mãn sự công chính của Đức Chúa Trời thay cho họ.8 Sự xưng công chính họ có được hoàn toàn dựa trên ân điển nhưng không, bởi vì Ngài đã được ban cho họ bởi Chúa Cha và sự vâng phục của Ngài thỏa mãn sự công chính của Cha. Những điều này được làm một cách nhưng không, chẳng phải bởi vì điều gì trong họ,9 để sự công chính và ân điển rời rộng của Đức Chúa Trời được vinh hiển khi tội nhân được xưng công chính.10

8Hê-bơ-rơ 10:14; 1 Phi-e-rơ 1:18-19; Ê-sai 53:5-6. 9Rô-ma 8:32; 2 Cô-rinh-tô 5:21. 10Rô-ma 3:26; Ê-phê-sô 1:6-7; 2:7.

Từ trước vô cùng, nguyên chỉ của Đức Chúa Trời là xưng công chính cho tất cả những người được chọn,11 và trong thời điểm chín muồi, Đấng Christ chết cho tội lỗi của họ và sống lại để họ được xưng công chính.12 Tuy nhiên, họ không được xưng công chính cho đến khi Đức Thánh Linh thực sự đặt Đấng Christ vào bên trong họ đúng thời điểm thích hợp.13

11Ga-la-ti 3:8; 1 Phi-e-rơ 1:2; 1 Ti-mô-thê 2:6. 12Rô-ma 4:25. 12Cô-lô-se 1:21-22; Tít 3:4-7.

Đức Chúa Trời tiếp tục tha thứ tội lỗi của những người đã được xưng công chính.14 Dù họ không bao giờ có thể ra khỏi địa vị được xưng công chính,15 nhưng họ có thể làm buồn lòng Chúa bởi vì tội lỗi của họ.16 Trong hoàn cảnh đó, họ thường không có sự sáng của mặt Ngài đến khi họ hạ mình, xưng nhận tội lỗi, xin tha thứ và làm mới đức tin qua sự ăn năn.17

14Ma-thi-ơ 6:12; 1 Giăng 1:7, 9. 15Giăng 10:28. 16Thi thiên 89:31-33. 17Thi thiên 32:5; Thi thiên 51; Ma-thi-ơ 26:75.

Trong tất cả cách này, sự xưng công chính của tín hữu trong thời Cựu Ước giống chính xác như sự xưng công chính của tín hữu trong thời Tân Ước.18

18Ga-la-ti 3:9; Rô-ma 4:22-24.

 

 

  1. NHẬN LÀM CON

Đức Chúa Trời cho tất cả những người được xưng công chính sẽ nhận được ân điển của sự nhận làm con  bởi cớ Con Một của Ngài là Chúa Giê-su.1 Vì vậy  họ được tính vào trong vòng con cái Đức Chúa Trời và tận hưởng sự tự do và đặc quyền của mối quan hệ đó.2 Họ được hưởng danh của Ngài,3 được nhận làm con nuôi,4 dạn dĩ đến ngai ân điển, và được gọi Cha thiên thượng là “A-ba, Cha!”5 Họ được ban cho sự thương xót,6 bảo vệ,7 chu cấp8 và cũng bị kỷ luật bởi Ngài như một người Cha.9 Họ không bao giờ bị vứt bỏ10 mà được đóng dấu cho tới ngày cứu rỗi11 và hưởng lấy lời hứa là người thừa kế của sự cứu rỗi đời đời.12

1Ê-phê-sô 1:5; Ga-la-ti 4:4-5. 2Giăng 1:12; Rô-ma 8:17. 32 Cô-rinh-tô 6:18; Khải huyền 3:12. 4Rô-ma 8:15. 5Ga-la-ti 4:6; Ê-phê-sô 2:18. 6Thi thiên 103:13. 7Châm ngôn 14:26. 81 Phi-e-rơ 5:7. 9Hê-bơ-rơ 12:6. 10Ê-sai 54:8-9; Ca thương 3:31. 11Ê-phê-sô 4:30. 12Hê-bơ-rơ 1:14; 6:12.

 

 

  1. THÁNH HOÁ

Những ai đã được hiệp nhất với Đấng Christ và được gọi và được tái sanh sẽ có tấm lòng mới và linh mới (new spirit) được tạo nên trong họ qua quyền năng của sự chết và sống lại của Đấng Christ. Họ cũng được thánh hóa,1 thông qua cùng một quyền năng, bởi Lời và Thánh Linh ngự trong họ.2 Sự cai trị của tội lỗi trên thân thể bị phá hủy3 và những khao khát xấu xa đến từ đó càng ngày càng yếu đi rồi chết dần.4 Cùng lúc đó, những người được kêu gọi và tái sinh trở nên phát triển và mạnh mẽ hơn trong tất cả ân điển cứu chuộc5 để họ có thể thực hành sự nên thánh, mà nếu không có sự nên thánh này thì không ai có thể thấy được Chúa.6

1Công vụ 20:32; Rô-ma 6:5-6. 2Giăng 17:17; Ê-phê-sô 3:16-19; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:21-23. 3Rô-ma 6:14. 4Ga-la-ti 5:24. 5Cô-lô-se 1:11. 62 Cô-rinh-tô 7:1; Hê-bơ-rơ 12:14.

Sự thánh hóa này tiếp diễn trong con người,7 dù không bao giờ trọn vẹn trong đời này. Một số sự xấu xa vẫn tồn tại trong mỗi phần của bản thể xác thịt.8 Từ đó dấy lên cuộc tranh chiến bên trong, xác thịt chống lại Thánh Linh và Thánh Linh chống lại xác thịt.9

71 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23. 8Rô-ma 7:18, 23. 9Ga-la-ti 5:17; 1 Phi-e-rơ 2:11.

Trong trận chiến này sự xấu xa còn lại sẽ có lúc chiến thắng.10 Nhưng qua sự ban cho liên tục của sức mạnh đến từ Thánh Linh của Đấng Christ thì sự tái sinh chiến thắng.11 Nên thánh đồ được tăng trưởng trong ân điển, hoàn thiện sự thánh khiết trong sự kính sợ Chúa. Họ theo đuổi một cuộc sống theo khuôn mẫu trong phúc âm, vâng phục tất cả mệnh lệnh mà Đấng Christ là Đầu hội thánh và là Vua.12

10Rô-ma 7:23. 11Rô-ma 6:14. 12Ê-phê-sô 4:15-16; 2 Cô-rinh-tô 3:18; 2 Cô-rinh-tô 7:1.

 

 

  1. ĐỨC TIN CỨU CHUỘC

Ân điển của đức tin khiến những người được chọn tin để linh hồn của họ được cứu; đó là công tác của Đức Thánh Linh bên trong tấm lòng họ.1 Đức tin vốn được sinh ra từ Lời Chúa.2 Bởi cùng với Lời Chúa và bởi thực hiện nghi lễ báp-tem và lễ tiệc thánh, lời cầu nguyện và những cách khác đều được Chúa chỉ định làm cho đức tin gia tăng và mạnh mẽ hơn.3

12 Cô-rinh-tô 4:13; Ê-phê-sô 2:8. 2Rô-ma 10:14, 17. 3Lu-ca 17:5; 1 Phi-e-rơ 2:2; Công vụ 20:32.

Bởi đức tin này Cơ đốc nhân tin rằng mọi điều bày tỏ trong Lời Chúa là lẽ thật và nhận ra đó là thẩm quyền của chính Đức Chúa Trời.4 Họ cũng nhận ra Lời Chúa xuất sắc hơn mọi sách vở khác trên thế giới.5 Bởi vì Lời Chúa bày tỏ vinh hiển của Đấng Christ trong bản tính và công tác của Ngài, cùng quyền năng, sự đầy trọn của Đức Thánh Linh trong công tác và cách vận hành của Ngài, nên họ có thể giao phó linh hồn cho lẽ thật họ tin.6 Họ đáp ứng khác nhau với nội dung của mỗi phân đoạn cụ thể – vâng theo mạng lệnh,7 run rẩy trước các lời cảnh bảo8 và bám chắc vào lời hứa của Chúa trong đời này và đời sau.9 Nhưng các hành động cơ bản của đức tin cứu chuộc tập trung chủ yếu vào Đấng Christ – chấp nhận, tiếp nhận, và chỉ nương nơi Ngài để có được sự xưng công chính, thánh hóa và sự sống đời đời qua giao ước của ân điển.10

4Công vụ 24:14. 5Thi thiên 27:7-10; Thi thiên 119:72. 62 Ti-mô-thê 1:12. 7Giăng 14:14. 8Ê-sai 66:2. 9Hê-bơ-rơ 11:13. 10Giăng 1:12; Công vụ 16:31; Ga-la-ti 2:20; Công vụ 15:11.

Đức tin này có thể tồn tại ở những mức độ khác nhau để trở nên yếu đi hoặc mạnh hơn.11 Nhưng ngay cả trong giai đoạn yếu đuối nhất, đức tin vào Đấng Christ vẫn khác biệt với các niềm tin khác, đó là “đức tin đồng quí báu như của các sứ đồ”12 Do đó, đức tin có thể thường bị tấn công và yếu đi, nhưng đức tin vẫn giành được chiến thắng.13 Đức tin sẽ trưởng thành nhiều hơn cho khi được đảm bảo trọn vẹn qua Đấng Christ,14 là Đấng khởi đầu và hoàn thành đức tin chúng ta.15

11Hê-bơ-rơ 5:13-14; Ma-thi-ơ 6:30; Rô-ma 4:19-20. 122 Phi-e-rơ 1:1. 13Ê-phê-sô 6:16; 1 Giăng 5:4-5. 14Hê-bơ-rơ 6:11-12; Cô-lô-se 2:2. 15Hê-bơ-rơ 12:2.

 

 

  1. ĂN NĂN NHẬN LẤY SỰ SỐNG VÀ SỰ CỨU RỖI

Một số người được chọn bắt đầu cải đạo sau khi trải qua hết những năm tháng tuổi trẻ, đã từng sống trong tình trạng xác thịt được một thời gian và đi theo đủ kiểu khao khát và đam mê xấu xa. Chúa ban cho những người đã ăn năn này sự sống là một phần của sự kêu gọi họ có được.1

1Tít 3:2-5

Không ai có thể làm lành mà không phạm tội.2 Ngay cả người tốt nhất cũng có thể phạm tội và vấp phạm lớn, bởi năng quyền và sự lừa dối của tư dục xác thịt cùng với năng lực cám dỗ trong họ. Do đó, Chúa đã thương xót họ trong giao ước ân điển khi ban cho họ điều này: nếu tín hữu phạm tội và sa ngã sẽ có cơ hội được làm mới lại qua sự ăn năn để được cứu rỗi.3

2Truyền đạo 7:20. 3Lu-ca 22:31-21.

Sự ăn năn cứu rỗi này là ân điển phúc âm4 mà trong đó những người được Đức Thánh Linh nhắc nhở về những điều xấu xa của tội lỗi họ, bởi đức tin trong Đấng Chris hạ mình trong nỗi đau buồn tin kính, ghét tội lỗi, tự bắt phục lấy minh.5 Họ cầu nguyện xin được tha thứ và xin được sức mạnh của ân điển và quyết tâm cùng nỗ lực nhờ sự giúp sức của Đức Thánh Linh để sống trước mặt Chúa theo cách đẹp lòng Ngài trong mọi điều.6

4Xa-cha-ri 12:10; Công vụ 11:18. 5Ê-xê-chi-ên  36:31; 2 Cô-rinh-tô 7:11. 6Thi thiên 119:6, 128.

Ăn năn phải tiếp diễn suốt cuộc đời chúng ta, bởi cớ thân thể hay chết và các việc làm của nó. Nên ăn năn trong từng tội lỗi cụ thể  là trách nhiệm của mọi người.7

7Lu-ca 19:8; 1 Ti-mô-thê 1:13, 15.

Đức Chúa Trời đã chu cấp đầy đủ qua Đấng Christ trong giao ước ân điển để gìn giữ các tín hữu trong sự cứu rỗi. Do đó, dù không có tội lỗi nào là quá nhỏ để kết tội,8 nhưng cũng không có tội nào quá lớn để mang đến sự kết tội cho những người ăn năn.9 Điều này khiến cho công tác giảng dạy liên tục về ăn năn là cần thiết.

8Rô-ma 6:23. 9Ê-sai 1:16-18; 55:7.

 

 

  1. VIỆC LÀNH

Việc lành là những việc Đức Chúa Trời đã ban mạng lệnh trong Lời Ngài.1 Còn các việc lành được lập nên bởi con người, chúng đến từ khao khát mù quáng hoặc có ý tốt nhưng thực ra là sai lầm.2

1Mi-chê 6:8; Hê-bơ-rơ 13:21. 2Ma-thi-ơ 15:9; Ê-sai 29:13.

Những việc lành mà được thực hiện trong sự vâng phục mạng lệnh của Chúa, là bông trái và bằng chứng của đức tin sống động và chân thật.3 Thông qua việc lành, tín hữu bày tỏ sự biết ơn,4 làm vững mạnh sự bảo đảm về ơn cứu rỗi,5 gây dựng anh em, nhấn mạnh lời xưng nhận phúc âm, 6 chặn miệng những người chống đối và làm vinh hiển Chúa.7 Tín hữu là người làm công của Chúa, được tạo nên trong Chúa Giê-su để làm việc lành,8 để có thể sanh bông trái đưa đến sự thánh khiết và có kết quả là sự sống đời đời.9

3Gia-cơ 2:18, 22. 4Thi thiên 116:12-13. 51 Giăng 2:3, 5; 2 Phi-e-rơ 1:5-11. 6Ma-thi-ơ 5:16. 71 Ti-mô-thê 6:1; 1 Phi-e-rơ 2:15; Phi-líp 1:11. 8Ê-phê-sô 2:10. 9Rô-ma 6:22.

Khả năng làm lành không đến từ chính bản thân tín hữu nhưng hoàn toàn đến từ Thánh Linh của Đấng Christ.10 Để có thể làm lành, họ cần – thêm vào với ân điển họ đã nhận được – một ảnh hưởng năng động của cùng Đức Thánh Linh hành động trong họ để họ muốn và làm điều đẹp lòng Ngài.11 Chẳng có lý do nào để họ tiếp tục sống trong sự cẩu thả, như thể họ không phải thực hiện bất cứ trách nhiệm nào mà không có sự vận hành đặc biệt của Đức Thánh Linh. Thay vào đó, họ nên chăm chỉ nhờ cậy vào  ân điển của Chúa trong bên trong họ.12

10Giăng 15:4-5. 112 Cô-rinh-tô 3:5; Phi-líp 2:13; 12Phi-líp 2:12; Hê-bơ-rơ 6:11-12; Ê-sai 64:7.

Những ai học tập vâng phục Đức Chúa Trời lại đi lệch khỏi trách nhiệm Chúa giao hay làm nhiều hơn những gì Chúa yêu cầu sẽ phải tranh biện với Chúa trong ngày phán xét. Thay vì vậy, họ phải thấy rằng họ đang thực hiện bổn phận phải làm.13

 

13Gióp 9:2-3; Ga-la-ti 5:17; Lu-ca 17:10.

Chúng ta không thể, ngay cả khi với kết quả tốt nhất, nhận được sự tha thứ tội lỗi hay sự sống đời đời từ Chúa. Thông qua những việc làm này, chúng ta không thể làm lợi cho Chúa cũng như không thể thỏa mãn Ngài bởi món nợ từ tội lỗi cũ.14 Khi chúng ta làm tất cả những gì mình có thể, chúng ta chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình và cũng chỉ là những đầy tớ biếng nhác và vô ích. Các việc lành là tốt, nhưng chúng phải đến từ Đức Thánh Linh;15 Còn các việc lành được chính chúng ta thực hiện, chúng có thể bị ô uế và trộn lẫn với những điểm yếu và sự bất toàn nên không thể đứng nổi trong sự phán xét của Chúa.16

14Rô-ma 3:20; Ê-phê-sô 2:8-9; Rô-ma 4:6. 15Ga-la-ti 5:22-23. 16Ê-sai 64:6; Thi thiên 143:2.

Tuy nhiên, tín hữu được chấp nhận qua Đấng Christ, và do đó việc lành của họ cũng được chấp nhận trong Ngài.17 Sự chấp nhận này không có nghĩa là việc lành của chúng ta hoàn toàn không tì vết, vô tội và không chỗ trách trong mắt Chúa. Thay vào đó, Đức Chúa Cha nhìn nhận tín nhân và các việc lành của họ trong Con Ngài, nên Ngài vui lòng chấp nhận và thưởng cho những người trung tín, dù còn rất nhiều điểm yếu và sự bất toàn.18

17Ê-phê-sô 1:6; 1 Phi-e-rơ 2:5. 18Ma-thi-ơ 25:21, 23; Hê-bơ-rơ 6:10.

Việc lành được thực hiện bởi những người chưa được tái sinh thì có thể do Chúa đã thuyết phục từ bên trong họ và làm ích lợi cho chính họ và người khác.19 Nhưng các việc lành này không đến từ một tấm lòng được thanh tẩy bởi đức tin20 và không được thực hiện đúng cách theo như Lời Chúa21 cũng như không đúng mục tiêu – vinh hiển dâng về Chúa.22 Do đó, các việc lành này đầy tội lỗi và không thể làm đẹp lòng Chúa. Các việc lành không thể làm cho bất cứ ai đủ tiêu chuẩn để tiếp nhận ân điển từ Chúa,23 nhưng sự thờ ơ của họ đối với các nhu cầu của tha nhân sẽ bị Chúa đoán phạt.24

192 Các vua 10:30; 1 Các vua 21:27, 29. 20Sáng thế ký 4:5; Hê-bơ-rơ 11:4, 6. 211 Cô-rinh-tô 13:1. 22Ma-thi-ơ 6:2, 5. 23A-mốt 5:21-22; Rô-ma 9:16; Tít 3:5. 24Gióp 21:14-15; Ma-thi-ơ 25:41-43.

 

 

  1. SỰ KIÊN TRÌ CỦA CÁC THÁNH ĐỒ

Những người Chúa đã chấp nhận trong Con Yêu Dấu, được kêu gọi và thánh hóa bởi Đức Thánh Linh, và được ban cho đức tin quý báu không thể là hoàn hảo, hoặc đến cuối cùng lạc mất khỏi ân điển. Họ chắc chắn sẽ kiên trì trong ân điển cho đến cuối cùng và được cứu đời đời, bởi ân tứ và sự kêu gọi của Chúa không thay đổi. Do đó, Đức Chúa Trời vẫn sẽ nuôi dưỡng họ trong đức tin, sự ăn năn, tình yêu, niềm vui, hi vọng. Tất cả ân điển dẫn họ đến với đời sống tin kính.1 Dù bão tố có nổi lên, vùi dập và chống lại họ, nhưng những điều này sẽ không bao giờ có thể lôi kéo những người được chọn ra khỏi nền tảng và hòn đá mà họ đã neo đậu bằng đức tin. Cảm nhận về sự sáng và tình yêu của Chúa có thể bị mù mịt và che khuất khỏi họ một thời gian bởi sự vô tín của họ và cám dỗ của Sa-tan.2 Nhưng ân ban của Chúa vẫn không thay đổi; họ chắc chắn được gìn giữ bởi quyền năng của Chúa cho sự cứu rỗi là nơi họ  sẽ vui hưởng những gì Chúa Giê-su đã trả giá. Bởi vì tên của họ đã được khắc trong lòng bàn tay của Ngài và được chép trong sách sự sống đời đời.3

1Giăng 10:28-29; Phi-líp 1:6; 2 Ti-mô-thê 2:19; 1 Giăng 2:19. 2Thi thiên 89:31-32; 1 Cô-rinh-tô 11:32. 3Ma-la-chi 3:6.

Sự nhẫn nại của các thánh đồ không phụ thuộc vào ý chí tự do của họ mà là sự không thay đổi của Chúa về những người được chọn,4 họ được ban phát một tình yêu nhưng không. Sự kiên trì của các thánh đồ dựa trên kết quả: công tác của Chúa Giê-su và sự hiệp một với Ngài,5 lời hứa  của Đức Chúa Trời,6 sự ở cùng của Đức Thánh Linh, hạt giống của Đức Chúa Trời bên trong họ,7 và bản chất của giao ước ân điển. Sự kiên trì chắc chắn, kiên định mà tín nhân có dựa trên tất cả những điều trên.8

4Rô-ma 8:30; Rô-ma 9:11, 16. 1Rô-ma 5:9-10; Giăng 14:19. 1Hê-bơ-rơ 6:17-18. 71 Giăng 3:9. 8Giê-rê-mi 32:40.

Tín nhân có thể sa vào tội lỗi  và tiếp tục ở trong tình trạng đó một thời gian, do sự cám dỗ của Sa-tan và thế gian, sức mạnh của xác thịt tội lỗi tồn tại trong họ, và sự thờ ơ với các trách nhiệm.9 Khi làm vậy, họ làm buồn lòng Chúa và Thánh Linh Ngài;10 ân điển và sự an ủi của Chúa bị giảm đi;11 tấm lòng và lương tâm họ trở nên chai đá;12 Họ làm tổn thương và hủy hoại người khác và mang đến sự phán xét tạm thời ngay trên chính bản thân.13 Tuy nhiên, họ sẽ được tươi mới qua sự ăn năn, và được gìn giữ đức tin trong Chúa Giê-su cho đến cuối cùng.14

9Ma-thi-ơ 26:70, 72, 74. 10Ê-sai 64:5, 9; Ê-phê-sô 4:30. 11Thi thiên 51:10, 12. 12Thi thiên 32:3-4. 132 Sa-mu-ên 12:14. 14Lu-ca 22:32, 61-62.

 

 

  1. BẢO ĐẢM CỦA ÂN ĐIỂN VÀ SỰ CỨU RỖI

Những người chưa được tái sinh có thể lừa dối chính mình bằng niềm hi vọng giả dối là họ có ân điển và sự cứu rỗi của Chúa, nhưng hi vọng đó sẽ bị hủy phá.1 Còn những ai thực sự tin Chúa Giê-su và yêu Ngài chân thành, cậy ơn Chúa bước đi trong một lương tâm tốt lành trước Ngài, có thể được bảo đảm chắc chắn trong đời này rằng họ đang ở trong ân điển. Họ có thể vui mừng trong niềm hi vọng về vinh quang Chúa,2 và hi vọng này không bao giờ làm họ hổ thẹn.3

1Gióp 8:13-14; Ma-thi-ơ 7:22-23. 21 Giăng 2:3; 3:14, 18-19, 21, 24; 5:13. 3Rô-ma 5:2,5.

Sự bảo đảm về ơn cứu rỗi này không phải mơ hồ hay dựa trên hy vọng mong manh. Đây là sự  bảo đảm không thể gãy đổ của đức tin4 được lập nền trên huyết và sự công chính của Đấng Christ đã bày tỏ trong phúc âm.5 Sự đảm bảo cũng được xây dựng trên bằng chứng bên trong của ân điển Thánh Linh nơi những lời hứa được thiết lập.6 Sự đảm bảo còn được dựa trên lời chứng của Đức Thánh Linh  làm chứng với tâm linh của chúng ta rằng chúng ta là con cái Chúa.7 Kết quả của sự bảo đảm này dẫn đến tấm lòng của chúng ta sẽ được gìn giữ khiêm nhường và thánh khiết.8

4Hê-bơ-rơ 6:11, 19. 5Hê-bơ-rơ 6:17-18. 62 Phi-e-rơ 1:4-5, 10-11. 1Rô-ma 8:15-16. 81 Giăng 3:1-3.

Sự bảo đảm không đổi này không phải là một phần của đức tin mà luôn được kinh nghiệm trọn vẹn cùng với đức tin, nhưng các tín hữu chân thật có thể chờ đợi một thời gian dài và vật lộn với nhiều sự khó khăn trước khi nhận được.9 Cùng với sự giúp sức của Đức Thánh Linh để biết những điều được Chúa ban cho nhưng không, tín nhân có thể nhận được sự bảo đảm này bằng cách sử dụng các phương pháp thông thường phù hợp mà không cần sự mặc khải siêu nhiên.10 Do đó, đây là trách nhiệm của tất cả mọi tín nhân. Họ cần chăm chỉ hết mức có thể để khiến cho sự kêu gọi và được chọn của họ được bảo đảm. Bằng cách này tấm lòng của họ sẽ được tràn ngập  trong sự bình an và niềm vui, trong tình yêu thương và sự cảm tạ Chúa, trong sức mạnh và niềm vui của sự vâng phục. Những điều này là kết quả tự nhiên cho sự bảo đảm này,11 vì vậy các tín hữu không nên bỏ qua điều này.12

9Ê-sai 50:10; Thi thiên 88; 77:1-12. 101 Giăng 4:13; Hê-bơ-rơ 6:11-12. 11Rô-ma 5:1-2, 5; 14:17; Thi thiên 119:32. 12Rô-ma 6:1-2; Tít 2:11-12, 14.

Tín hữu chân thật có thể bị lung lay, giảm bớt hay dường như tạm thời bị mất đi sự bảo đảm về ơn cứu rỗi theo nhiều cách khác nhau. Điều này có thể xảy ra bởi họ từ chối gìn giữ Lời Chúa13 hay sa ngã vào một số tội cụ thể làm tổn thương lương tâm của họ và làm buồn lòng Đức Thánh Linh.14 Điều này có thể xảy ra bởi một số cám dỗ mạnh mẽ15 không mong muốn, hay  khi Chúa ẩn mặt đi và để cho  những người tin kính bước đi trong sự tối tăm mà không có sự sáng.16 Nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn toàn đánh mất: hạt giống của Đức Chúa Trời,17 sự sống bởi đức tin,18 tình yêu với Đức Chúa Trời và các tín nhân, tấm lòng chân thật hay lương tâm về trách nhiệm của họ. Bởi vì những ân điển này, qua công tác của Đức Thánh Linh, sự bảo đảm có thể được phục hồi ở thời điểm thích hợp.19 Qua đó, họ cũng sẽ tránh được sự thất vọng.20

13Nhã ca 5:2-3, 6. 14Thi thiên 51:8, 12, 14. 15Thi thiên 116:11; 77:7-8; 31:22; 16Thi thiên 30:7. 171 Giăng 3:9. 18Lu-ca 22:32. 19Thi thiên 42:5, 11. 20Ca thương 3:26-31.

 

 

  1. LUẬT PHÁP CHÚA

Đức Chúa Trời ban cho A-đam luật vâng phục toàn diện được viết trong tấm lòng của ông và một mệnh lệnh cụ thể đó là không được ăn trái của cây biết điều thiện điều ác.1 Tức là Chúa đòi hỏi ông và tất cả con cháu về sau vâng phục nguyên chỉ này cách hoàn toàn và mãi mãi.2 Chúa hứa ban sự sống nếu A-đam giữ trọn mệnh lệnh và đe dọa sự chết nếu ông phạm phải, và Ngài cũng ban cho A-đam sức mạnh và khả năng để giữ lấy luật pháp.3

1Sáng thế ký 1:27; Truyền đạo 7:29. 2Rô-ma 10:5. 3Ga-la-ti 3:10, 12.

Cùng một luật pháp được viết lần đầu tiên trong tấm lòng con người, tiếp tục là một luật công chính hoàn hảo sau khi sa ngã.4 Luật pháp được Chúa trao cho Môi-se trên núi Si-nai trong mười điều răn và được viết trên hai tảng đá. Bốn điều răn đầu tiên nói về trách nhiệm của chúng ta với Chúa và sáu điều tiếp theo nói về trách nhiệm của chúng ta với con người.5

4Rô-ma 2:14-15. 5Phục truyền luật lệ ký 10:4.

Ngoài luật pháp này_thường được gọi là luật đạo đức. Chúa cũng ban cho tuyển dân Y-sơ-re-ên luật cụ thể về các nghi lễ. Có thể nói là các luật này đề cập đến sự thờ phượng, bằng cách khắc hoạ Đấng Christ, ân điển, hành động, sự chịu khổ của Ngài.6 Tức là các luật này bày tỏ những chỉ dẫn khác nhau về trách nhiệm đạo đức.7 Tất cả những luật nghi lễ này phải tuân theo cho đến khi luật mới được cập nhật. Hiện nay chúng đã bị loại bỏ bởi Chúa Giê-su. Là Đấng Mê-si  và là Đấng ban luật pháp duy nhất, Ngài được Cha ban cho uy quyền để làm điều này.8

6Hê-bơ-rơ 10:1; Cô-lô-se 2:17. 71 Cô-rinh-tô 5:7. 8Cô-lô-se 2:14, 16-17; Ê-phê-sô 2:14, 16.

Với dân Y-sơ-ra-ên, Ngài cũng ban cho các luật liên quan khác. Luật pháp này không còn bắt buộc bất cứ ai phải theo. Chỉ những nguyên tắc chung về sự công chính  là tiếp tục có giá trị đạo đức.9

91 Cô-rinh-tô 9:8-10.

Luật đạo đức mãi mãi yêu cầu sự vâng phục của mọi người, kể cả người được xưng công chính cũng như những người khác.10 Có điều bắt buộc này không chỉ bởi vì nội dung trong đó nhưng cũng bởi vì thẩm quyền của Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo đã ban cho.11 Ngay cả Đấng Christ cũng không hủy bỏ điều bắt buộc này trong phúc âm, mà trái lại Ngài còn nhấn mạnh thêm.12

10Rô-ma 13:8-10; Gia-cơ 2:8, 10-12. 11Gia-cơ 2:10-11. 12Ma-thi-ơ 5:17-19; Rô-ma 3:31.

Tín hữu chân thật không ở dưới luật pháp theo như giao ước cũ, để được xưng công chính hay bị kết án bởi luật pháp.13 Nhưng luật pháp này hữu dụng cho họ và người khác như một luật  của cuộc sống, cho họ biết ý muốn của Chúa và trách nhiệm của họ. Luật pháp chỉ dẫn và khiến họ sống đúng. Luật pháp cũng tỏ ra sự băng hoại của tội lỗi trong bản chất con người sa ngã. Khi  kiểm tra chính mình trong ánh sáng luật pháp, người ta có thể bị cáo trách, hổ thẹn, và ghét tội lỗi.14  Họ cũng thấy  nhu cầu cần có Đấng Christ, thấy sự hoàn hảo trong sự vâng phục của Ngài. Luật pháp cũng mang lại lợi ích  ngăn trở sự tha hóa, vì luật pháp cấm tội lỗi. Sự trừng phạt mà luật pháp cảnh báo cho họ thấy tội lỗi của họ xứng đáng nhận điều gì. Và những nan đề họ có thể nhận được trong đời này vì cớ tội lỗi, mặc dù họ được giải phóng khỏi sự rủa sả và sự nghiêm nhặt của luật pháp. Lời hứa của luật pháp cũng chỉ cho họ sự hài lòng của Chúa khi họ vâng lời và phước hạnh họ nhận được khi tuân giữ luật pháp. Nếu mọi người làm lành và kiềm chế làm ác bởi vì luật pháp khích lệ làm lành và cấm làm ác thì điều này không có nghĩa là họ thuộc dưới luật pháp. Họ thuộc dưới ân điển.15

13Rô-ma 6:14; Ga-la-ti 2:16; Rô-ma 8:1; 10:4. 14Rô-ma 3:20; 7:7, v.v..; 15Rô-ma 6:12-14; 1 Phi-e-rơ 3:8-13.

Các cách sử dụng luật pháp này không trái ngược với ân điển phúc âm mà còn hoà hợp,16 bởi Thánh Linh của Đấng Christ tể trị và khiến cho ý muốn của con người được tự do và vui mừng làm theo ý muốn Chúa như đã bày tỏ trong những gì luật pháp yêu cầu.17

16Ga-la-ti 3:21. 17Ê-xê-chi-ên 36:27.

 

 

 

  1. PHÚC ÂM VÀ ÂN ĐIỂN MỞ RỘNG

Vì giao ước việc làm bị phá bỏ bởi tội lỗi và không thể mang đến sự sống, Đức Chúa Trời tuyên bố lời hứa về Đấng Christ thuộc dòng dõi của người nữ, là phương cách để kêu gọi những người được chọn và sản sinh trong họ đức tin và sự ăn năn.1 Trong lời hứa này, phúc âm được bày tỏ và kết quả là sự cải đạo và cứu rỗi tội nhân.2

1Sáng thế ký 3:15. 2Khải huyền 13:8.

Lời hứa về Đấng Christ và về sự cứu rỗi thông qua Ngài chỉ được bày tỏ trong Lời Chúa.3  Công tác của sự sáng tạo và sự chu cấp của Đức Chúa Trời chỉ được thấy rõ khi nhận được sự sáng. Công tác truyền giảng phúc âm sẽ chuyển tải đức tin đến cho người nghe 4 Chỉ những người có được sự mặc khải về Ngài trong lời hứa có thể nhận được đức tin cứu rỗi hay sự ăn năn và nhận lãnh phước hạnh từ Đức Chúa Trời.5

3Rô-ma 1:17. 4Rô-ma 10:14-15, 17. 5Châm ngôn 29:18; Ê-sai 25:7; Ê-sai 60:2-3.

 

Phúc âm bày tỏ cho tội nhân trong các thời điểm và nơi chốn khác nhau, kèm theo lời hứa và quan điểm về sự vâng phục phải có. Các quốc gia và những cá nhân cụ thể được trao cho mặc khải này theo ý muốn tốt lành của Chúa.6 Sự lựa chọn này không phụ thuộc vào bất cứ lời hứa nào cho những người mà chứng minh rằng họ quản lý tốt các khả năng tự nhiên.  Không có ai từng làm điều này và cũng không ai có thể làm vậy. Do đó,  sự rao giảng phúc âm cho các cá nhân và quốc gia được trao cho mọi tín nhân trong nhiều mức độ mở rộng hay thu hẹp khác nhau, phụ thuộc vào ý muốn Chúa.7

6Thi thiên 147:20; Công vụ 16:7. 7Rô-ma 1:18-32.

Phúc âm chỉ là phương pháp bên ngoài để bày tỏ Đấng Christ và ân điển cứu rỗi, và đủ cho mục đích đó. Nhưng để được tái sinh  là công tác của Thánh Linh bên trong của linh hồn tội nhân  để sản sinh một cuộc đời thuộc linh mới.8 Ngoài cách này thì không có cách nào có thể mang lại cho họ sự cải đạo đúng nghĩa.9

8Thi thiên 110:3; 1 Cô-rinh-tô 2:14; Ê-phê-sô 1:19-20. 9Giăng 6:44; 2 Cô-rinh-tô 4:4, 6.

 

  1. SỰ TỰ DO CỦA CƠ ĐỐC NHÂN

VÀ SỰ TỰ DO CỦA LƯƠNG TÂM

Phúc âm của Đấng Christ đã chuộc mua các tín hữu. Họ được hưởng sự tự do khỏi tội lỗi, thoát khỏi sự kết án của Đức Chúa Trời cùng sự nghiêm ngặt và lời nguyền của luật pháp.1 Sự tự do của tín nhân cũng bao gồm các sự giải cứu thoát khỏi: thời kỳ đen tối hiện tại,2 gông cùm của Sa-tan,3 sự cai trị của tội lỗi,4 các hoạn nạn,5 sự sợ hãi và nọc độc của sự chết. Họ cũng chiến thắng sự chết6 và sự rủa sả đời đời.7 Thêm vào đó còn có cả sự tự do được đến gần Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài, không phải bởi sợ hãi khuất phục8 mà bởi tình yêu và tâm trí sẵn lòng như con trẻ.9

Tín hữu ở dưới luật pháp ưa thích tất cả mọi mặt của sự tự do này.10 Nhưng trong thời Tân Ước, sự tự do của Cơ đốc nhân được mở rộng hơn thế. Họ được giải phóng khỏi gánh nặng của luật pháp về các của tế lễ mà hội chúng Y-sơ-ra-ên phải gánh lấy; họ có sự tự tin lớn hơn để đến gần ngai ân điển; và họ có sự chu cấp đầy đủ của Thánh Linh; họ được tự do hơn những tín hữu ở dưới luật pháp.11

1Ga-la-ti 3:13. 2Ga-la-ti 1:4. 3Công vụ 26:18. 4Rô-ma 8:3. 5Rô-ma 8:28. 61 Cô-rinh-tô 15:54-57. 72 Tê-sa-lô-ni-ca 1:10. 8Rô-ma 8:15. 9Lu-ca 1:73-75; 1 Giăng 4:18. 10Ga-la-ti 3:9, 14. 11Giăng 7:38-39; Hê-bơ-rơ 10:19-21.

Đức Chúa Trời là Chúa của lương tâm,12 và Ngài đã để lương tâm tự do khỏi những giáo lý và điều răn của con người theo cách trái ngược với Lời Ngài hoặc không ở trong lời Ngài.13 Bởi vậy, tin vào những giáo lý của con người hay vâng theo những điều răn không có trong lương tâm là phản bội sự tự do của lương tâm thật.14 Yêu cầu phải có đức tin tuyệt đối hay vâng phục mù quáng vào tín lý sai lầm là hoàn toàn phá hủy sự tự do của lương tâm và cả lý trí.15

12Gia-cơ 4:12; Rô-ma 14:4. 13Công vụ 4:19, 29; 1 Cô-rinh-tô 7:23; Ma-thi-ơ 15:9. 13Cô-lô-se 2:20, 22-23. 151 Cô-rinh-tô 3:5; 2 Cô-rinh-tô 1:24.

Những ai sử dụng sự tự do của Cơ đốc nhân làm lý do để thực hiện bất kỳ tội lỗi nào hay nuôi dưỡng những tham vọng trái ngược với mục đích phúc âm sẽ đi tới sự hư hoại chính bản thân,15 và họ hoàn toàn phá huỷ mục đích của sự tự do Cơ đốc. Mục đích này  là chúng ta, đã được giải cứu khỏi bàn tay mọi kẻ thù nghịch để có thể hầu việc Chúa cách không sợ hãi, trong sự thánh khiết và công chính trước mặt Ngài  trọn cả đời sống chúng ta.17

16Rô-ma 6:1-2. 17Ga-la-ti 5:13; 2 Phi-e-rơ 2:18, 21.

 

  1. THỜ PHƯỢNG LỄ GIÁO VÀ NGÀY SA-BÁT

Vạn vật trong thế giới tự nhiên đi theo một qui luật nhất định bày tỏ rằng có một Đức Chúa Trời làm chủ và cai trị trên mọi thứ. Ngài công chính và tốt đẹp và làm lành cho mọi người. Do đó, Ngài đáng được kính sợ, được yêu, được ngợi khen, được kêu cầu, được tin cậy và được hầu việc – với trọn tấm lòng, linh hồn và sức mạnh của chúng ta.1 Nhưng cách thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật để được chấp nhận phải được Ngài chỉ dẫn2 và được giới hạn trong ý muốn Ngài mặc khải. Do đó, Ngài không được thờ phượng theo trí tưởng tượng hay sự sáng tạo của con người hay chỉ dẫn của Sa-tan, cũng chẳng phải qua những phương cách đặc biệt nào khác mà không được miêu tả trong Kinh Thánh.3

1Giê-rê-mi 10:7; Mác 12:33. 2Phục truyền luật lệ ký 12:32. 3Xuất Ai Cập ký 20:4-6.

Thờ phượng lễ giáo dành cho Đức Chúa Trời tức Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Linh và chỉ cho chính mình Ngài4 – không phải cho thiên sứ, thánh đồ hay bất kỳ tạo vật nào khác.5 Kể từ khi tổ phụ A-đam sa ngã, sự thờ phượng Đức Chúa Trời không thể thực hiện nếu không có Đấng trung bảo6 hay chức vụ giảng hoà nào ngoài Đấng Christ.7

4Ma-thi-ơ 4:9-10; Giăng 5:23; Ma-thi-ơ 28:19. 5Rô-ma 1:25; Cô-lô-se 2:18; Khải huyền 19:10. 6Giăng 14:6. 71 Ti-mô-thê 2:5.

Lời cầu nguyện với lòng biết ơn là phần cơ bản của thờ phượng và đó là điều Đức Chúa Trời yêu cầu mọi người.8 Nhưng để được tiếp nhận thì phải được thực hiện trong danh Đức Chúa Con,9 sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh,10 theo ý muốn Ngài.11 Cũng phải kèm theo sự hiểu biết, lòng tôn kính, khiêm nhường, sự nhiệt thành, đức tin, tình yêu thương và sự kiên trì. Cầu nguyện chung với người khác phải sử dụng ngôn ngữ mà mọi người có thể hiểu được.12

8Thi thiên 95:1-7; 65:2. 9Giăng 14:13-14. 10Rô-ma 8:26. 111 Giăng 5:14. 121 Cô-rinh-tô 14:16-17.

Lời cầu nguyện phải nên đi theo những điều hợp pháp, phù hợp với Lời Chúa và cho tất cả các người còn sống hiện nay hoặc sẽ sống sau này.13 Nhưng lời cầu nguyện không nên dành cho người chết14 hay cho những người đã phạm tội trọng đáng phải chết.15

131 Ti-mô-thê 2:1-2; 2 Sa-mu-ên 7:29. 142 Sa-mu-ên 12:21-23. 151 Giăng 5:16.

Các yếu tố của thờ phượng lễ giáo cho Đức Chúa Trời bao gồm đọc Kinh Thánh,16 rao giảng và lắng nghe Lời Chúa,17 dạy dỗ và khuyên nhủ người khác bằng ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng, hát với cả tấm lòng dâng lên Chúa,18 cũng như thực hành phép báp-têm19 và tiệc thánh.20 Tất cả phải được thực hiện bởi sự vâng phục Lời Chúa, với sự hiểu biết, đức tin, tôn kính và sự kính sợ Chúa. Cũng vậy, chủ động hạ mình cùng kiêng ăn21 và dành thời gian tạ ơn Chúa nên được thực hiện vào các trường hợp đặc biệt theo phương thức được Kinh Thánh soi sáng.22

161 Ti-mô-thê 4:13. 172 Ti-mô-thê 4:2; Lu-ca 8:18. 18Cô-lô-se 3:16; Ê-phê-sô 5:19. 19Ma-thi-ơ 28:19-20. 201 Cô-rinh-tô 11:26. 21Ê-xơ-tê 4:16; Giô-ên 2:12. 22Xuất Ai Cập ký 15:1-19, Thi thiên 107.

Trong ánh sáng của phúc âm, sự thờ phượng không bị giới hạn về nơi chốn hoặc thời gian.  Thay vào đó, Chúa phải được thờ phượng ở mọi nơi trong tâm thần và lẽ thật23 – hàng ngày24 trong mỗi gia đình25 và chốn riêng tư của mỗi cá nhân.26 Cũng vậy, nghi thức thờ phượng cần được thực hiện trong hội chúng mà không được vô tâm hay bất cẩn. Chúng ta phải bền lòng vâng phục theo Lời Chúa.27

23Giăng 4:21; Ma-la-chi 1:11; 1 Ti-mô-thê 2:8. 24Ma-thi-ơ 6:11; Thi thiên 55:17. 25Công vụ 10:2. 26Ma-thi-ơ 6:6. 27Hê-bơ-rơ 10:25; Công vụ 2:42.

Quy luật tự nhiên quy định dành riêng một khoảng thời gian cụ thể thờ phượng Chúa. Nên bởi lời Ngài, trong mạng lệnh đạo đức và răn dạy mọi người theo mọi lứa tuổi, Ngài đã chỉ định cụ thể giữ một ngày làm ngày thánh trong bảy ngày cho Ngài là ngày Sa-bát.28 Từ thuở sáng thế đến khi Chúa Giê-su sống lại, ngày đó là ngày cuối tuần. Sau khi Chúa Giê-su sống lại thì đổi thành ngày đầu tuần, được gọi là ngày Chủ Nhật.29 Ngày này được giữ cho đến tận thế làm ngày Sa-bát của Cơ đốc nhân, bởi vì luật pháp Môi-se áp dụng vào ngày cuối tuần đã được thay đổi.

28Xuất Ai Cập ký 20:8. 291 Cô-rinh-tô 16:1-2; Công vụ 20:7; Khải huyền 1:10.

Ngày Sa-bát phải được biệt riêng ra thánh cho Chúa khi mọi người có sự chuẩn bị tấm lòng  một cách đúng đắn và sau khi đã xử lý xong mọi vấn đề của cuộc sống thường nhật. Sau đó họ sẽ thực hành nghi lễ biệt riêng ra thánh, tạm thời để công việc sang một bên, cùng với mọi lời nói, suy nghĩ cá nhân và các thú tiêu khiển thế tục.30 Không chỉ vậy, họ cũng sử dụng trọn thời gian trong ngày với các hoạt động thờ phượng cá nhân với hội chúng cùng với trách nhiệm phải làm và bày tỏ lòng thương xót.31

30Ê-sai 58:13; Nê-hê-mi 13:15-22. 31Ma-thi-ơ 12:1-13.

  1. LỜI THỀ HỢP PHÁP VÀ LỜI HỨA NGUYỆN

Lời thề hợp pháp theo Lời Chúa là một phần của thờ phượng lễ giáo mà một người thề trong lẽ thật, sự công chính khi kêu cầu danh Chúa để làm chứng cho những gì đã thề1 và để phán xét người đã thề dựa trên sự thật hoặc dối trá trong đó.2

1Xuất Ai Cập ký 20:7; Phục truyền luật lệ ký 10:20; Giê-rê-mi 4:2. 22 Sử ký 6:22-23.

Tín nhân chỉ nên thề trong danh Chúa mà thôi và phải đi kèm với sự tin kính. Do đó, lập một lời thề trống rỗng hay dại dột bằng danh đáng kính sợ và vinh hiển này, hay thề vô tội vạ bất cứ điều gì đều là phạm tội.3 Nhưng trong những vấn đề quan trọng và nặng ký, một lời thề được bảo chứng bởi Lời Chúa để khẳng định sự thật và kết thúc mọi xung đột.4 Vậy một lời thề hợp pháp theo Kinh Thánh nên được sử dụng khi được yêu cầu từ các cơ quan luật pháp có thẩm quyền trong những hoàn cảnh cụ thể.5

3Ma-thi-ơ 5:34, 37; Gia-cơ 5:12. 4Hê-bơ-rơ 6:16; 2 Cô-rinh-tô 1:23. 5Nê-hê-mi 13:25.

Những ai có lời thề được bảo chứng bởi Lời Chúa nên cân nhắc sức nặng nghiêm trọng của hành động đó và khẳng định không gì ngoài điều người đó biết là sự thật. Đức Chúa Trời bị chọc giận bởi những lời thề sáo rỗng, sai lệch và dại dột, và bởi vì chúng mà đất đai bị rủa sả.6

6Lê-vi ký 19:12; Giê-rê-mi 23:10.

Một lời thề phải được bày tỏ theo nguyên nghĩa cơ bản của lời nói ra, mà không có bất kỳ sự giả dối nào.7

7Thi thiên 24:4.

Không được dùng bất kỳ danh tánh ngoài Chúa để thề. Lời thề phải được thực hiện một cách cẩn trọng và trung tín.8 Tuy nhiên, lời thề của các tu sĩ Công giáo Rô-ma về cuộc sống độc thân,9 nghèo khổ,10 và vâng theo các luật lệ cho tu sĩ không thể làm cho họ tiến đến sự hoàn hảo cao hơn. Thay vào đó, họ cứ mê muội và mắc các bẫy cám dỗ của tội lỗi mà Cơ đốc nhân không nên vướng vào.11

8Thi thiên 76:11; Sáng thế ký 28:20-22. 91 Cô-rinh-tô 7:2, 9. 10Ê-phê-sô 4:28. 11Ma-thi-ơ 19:11.

 

 

  1. CHÍNH QUYỀN CAI TRỊ

Đức Chúa Trời, Chúa tối cao và Vua của cả thế giới, đã chỉ định các bậc cầm quyền cai trị ở dưới Ngài và ở trên dân sự, bởi cớ vinh hiển Ngài và ích lợi cho dân chúng. Bởi mục đích này mà Ngài đã trang bị cho họ  thẩm quyền của người cai trị, để bảo vệ và khích lệ những người làm lành và trừng phạt kẻ xấu.1

1Rô-ma 13:1-4

Cơ đốc nhân có thể tuân theo luật và thực hiện trách nhiệm công dân khi được kêu gọi. Để thực hiện nhiệm vụ, họ phải đặc biệt gìn giữ sự công chính và bình an,2 theo luật pháp tốt đẹp của mỗi quốc gia hay là một thể chế chính trị. Để thực hiện trách nhiệm này, ngày nay tín nhân được soi sáng bởi Tân Ước để tham gia vào quân đội trong tình huống cần thiết và phải lẽ.3

22 Sa-mu-ên 23:3; Thi thiên 82:3-4. 3Lu-ca 3:14.

Vì các bậc cầm quyền được lập ra bởi Chúa với mục đích đã định, chúng ta nên thuận phục họ trong Chúa trong mọi điều hợp pháp họ yêu cầu. Chúng ta nên thuận phục không chỉ bởi vì sợ bị trừng phạt nhưng cũng vì cớ lương tâm.4 Chúng ta nên cầu nguyện cho các vua và các bậc cầm quyền, để ở dưới sự cai trị của họ chúng ta có thể sống một cuộc đời bình an và yên tịnh trong  sự thánh khiết và trung thực.5

4Rô-ma 13:5-7; 1 Phi-e-rơ 2:17. 51 Ti-mô-thê 2:1-2.

 

 

 

  1. HÔN NHÂN

Hôn nhân dành cho một người nam và một người nữ. Một người chồng không được phép có nhiều hơn một vợ, cũng như người vợ không được có hơn một chồng cùng lúc.1

1Sáng thế ký 2:24; Ma-la-chi 2:15; Ma-thi-ơ 19:5-6.

Hôn nhân được chỉ định để vợ chồng giúp đỡ lẫn nhau,2 gia tăng dân số bằng con cái hợp pháp3 và để ngăn cản những việc tà dâm.4

2Sáng thế ký 2:18. 3Sáng thế ký 1:28. 41 Cô-rinh-tô 7:2, 9.

Những ai có khả năng tự quyết định thì được kết hôn.5 Nhưng Cơ đốc nhân thì kết hôn với người trong Chúa.6 Do đó, những ai tuyên bố mình có đức tin chân thật không nên cưới người không tin hay người thờ thần tượng. Người tin kính cũng không nên mang chung ách khi cưới những người có cuộc sống xấu xa hoặc theo tà giáo.7

5Hê-bơ-rơ 13:4; 1 Ti-mô-thê 4:3. 61 Cô-rinh-tô 7:39. 7Nê-hê-mi 13:25-27.

Hôn nhân không được diễn ra trong vòng những người có quan hệ huyết thống như đã cấm trong Lời Chúa.8 Các mối quan hệ loạn luân này không bao giờ hợp pháp. Hai người khác phái có thể sống chung như chồng và vợ căn cứ vào luật pháp con người hay sự đồng thuận của các bên liên quan.9

8Lê-vi ký 18. 9Mác 6:18; 1 Cô-rinh-tô 5:1.

 

 

  1. HỘI THÁNH

Hội Thánh Công giáo – nói chung – có thể nói là không thấy được công tác bên trong của Đức Thánh Linh và lẽ thật của ân điển. Hội Thánh bao gồm những người đã, đang và sẽ hiệp lại ở dưới Đấng Christ làm Đầu. Hội Thánh là nàng dâu, thân thể, sự đầy trọn của Đấng dành cho tất cả mọi người.1

1Hê-bơ-rơ 12:23; Cô-lô-se 1:18, Ê-phê-sô 1:10, 22-23; Ê-phê-sô 5:23, 27, 32.

Tất cả những người trên thế giới tuyên xưng đức tin vào phúc âm và vâng phục Đức Chúa Trời qua Đấng Christ trong việc giữ phúc âm thì được gọi là những thánh đồ.2 Họ không phá hủy sự tuyên xưng của mình bởi bất cứ lỗi lầm căn bản nào hay sống không thánh khiết. Tất cả hội chúng địa phương cần phải làm theo điều này.3

21 Cô-rinh-tô 1:2; Công vụ 11:26. 3Rô-ma 1:7; Ê-phê-sô 1:20-22.

Hội Thánh thường bị ảnh hưởng bởi sự hỗn tạp và sai phạm.4 Một số Hội Thánh biến chất đến nỗi họ không còn là Hội Thánh của Đấng Christ mà trở thành nhà hội của Sa-tan.5 Tuy nhiên, Đấng Christ luôn và sẽ ở trong thế giới này đến kỳ cuối cùng để lập nên một vương quốc của những người tin Ngài và tuyên xưng danh Ngài.6

41 Cô-rinh-tô 5; Khải huyền 2 và 3. 5Khải huyền 18:2; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:11-12. 6Ma-thi-ơ 16:18; Thi thiên 102:28; Khải huyền 12:17.

Chúa Giê-su là Đầu Hội Thánh. Bởi sự chỉ định của Cha, mọi thẩm quyền được trao cho Ngài trong vai trò cao nhất để kiểm soát, xây dựng, ra lệnh và cai trị Hội Thánh.7 Đức giáo hoàng của nhà thờ Công giáo không thể là đầu Hội Thánh; thực ra, ông ta là kẻ chống Chúa, kẻ nghịch cùng luật pháp, và là đứa con của sự hư mất, tự tôn cao chính mình trong giáo hội, chống lại Đấng Christ và Đức Chúa Trời. Chúa sẽ phá hủy ông ta bằng sự sáng khi Ngài đến.8

7Cô-lô-se 1:18; Ma-thi-ơ 28:18-20; Ê-phê-sô 4:11-12. 82 Tê-sa-lô-ni-ca 2:2-9.

Khi thực hành thẩm quyền được trao cho, Chúa Giê-su qua mục vụ của Lời Ngài, bởi Đức Thánh Linh, kêu gọi những người đã được ban cho Ngài ra khỏi thế gian đến với Ngài.9 Họ được kêu gọi để sống trước mặt Ngài trọn sự thuận phục mà Ngài đã dạy họ trong Lời Chúa.10 Chúa ban mạng lệnh cho những người được gọi sống với nhau trong cùng địa phương, hay trong Hội Thánh, để được soi sáng chung và sự chỉ dẫn phải lẽ về thờ phượng mà Ngài muốn họ làm theo trong khi còn ở trong thế gian.11

9Giăng 10:16; Giăng 12:32. 10Ma-thi-ơ 28:20. 11Ma-thi-ơ 18:15-20.

Thành viên của các Hội Thánh này được gọi là thánh đồ, thể hiện rõ trong tuyên xưng và cuộc đời vâng phục sự kêu gọi của Đấng Christ.12 Họ sẵn lòng đồng thuận sống cùng nhau theo chỉ dẫn của Đấng Christ, phó chính mình cho Chúa và cho nhau theo ý muốn của Đức Chúa Trời, với mục đích định sẵn theo chỉ định của phúc âm.13

12Rô-ma 1:7; 1 Cô-rinh-tô 1:2. 13Công vụ 2:41-42; Công vụ 5:13-14; 2 Cô-rinh-tô 9:13.

Với mọi Hội Thánh nhóm lại theo cách này, có cùng tâm trí của Đấng Christ như đã thấy trong lời Ngài, Ngài đã ban cho họ tất cả thẩm quyền và năng lực theo các cách cần thiết để hướng dẫn cách thờ phượng và môn đệ hóa mà Ngài chỉ định họ làm theo. Ngài cũng ban cho họ mạng lệnh và điều răn để sử dụng và bày tỏ quyền lực đúng cách và phù hợp.14

14Ma-thi-ơ 18:17-18; 1 Cô-rinh-tô 5:4-5, 13. 2 Cô-rinh-tô 2:6-8.

Một Hội Thánh địa phương nhóm lại và được tổ chức theo như ý định của Đấng Christ bao gồm các lãnh đạo và thành viên. Các lãnh đạo được chỉ định là các trưởng lão hay người lớn tuổi và chấp sự. Họ được chọn và biệt riêng ra cho Hội Thánh. Họ được kêu gọi cho mục đích riêng biệt để điều hành các nghi lễ và thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác mà Đấng Christ giao phó. Mô hình này còn tiếp tục đến thời kỳ cuối cùng.15

15Công vụ 20:17, 28. Phi-líp 1:1.

Đấng Christ đã chỉ định phương cách để kêu gọi những người đã được chuẩn bị và được trao ân tứ bởi Đức Thánh Linh cho nhiệm vụ cai quản hay làm trưởng lão trong Hội Thánh. Người đó phải được chọn bởi các phiếu bầu của chính Hội Thánh.16 Người đó phải được biệt riêng bằng kiêng ăn và cầu nguyện. Nếu Hội Thánh có trưởng lão thì các thành viên của hội thánh phải đặt tay trên người đó.17 Chấp sự cần phải được chọn bằng phiếu bầu tương tự và biệt riêng bằng lời cầu nguyện và phép đặt tay.18

16Công vụ 14:23. 171 Ti-mô-thê 4:14. 18Công vụ 6:3, 5-6.

Công việc của mục sư là liên tục quan tâm tới mục vụ trong Hội Thánh trong công tác giảng dạy Lời Chúa và cầu nguyện. Họ cần phải coi sóc linh hồn của các thành viên Hội Thánh vì họ là những người phải chịu trách nhiệm trước Đấng Christ.19 Những Hội Thánh có các mục sư chăn bầy, Hội Thánh không chỉ tôn trọng họ mà còn cần phải chia sẻ với họ tất cả những điều tốt lành trong khả năng của mình.20 Hội Thánh phải làm điều này để mục sư của họ có thể có một cuộc sống thoải mái và không phải vướng bận vào các vấn đề thế tục21 để các mục sư có thể bày tỏ sự tiếp đãi với người khác.22 Điều này được yêu cầu bởi luật pháp tự nhiên và bởi mệnh lệnh của Chúa Giê-su, Đấng đã quy định rằng những ai rao giảng phúc âm phải sống bởi phúc âm.23

19Công vụ 6:4; Hê-bơ-rơ 13:17. 201 Ti-mô-thê 5:17-18; Ga-la-ti 6:6-7. 212 Ti-mô-thê 2:4. 221 Ti-mô-thê 3:2. 231 Cô-rinh-tô 9:6-14.

Mặc dù người lãnh đạo hoặc mục sư Hội Thánh hiển nhiên coi giảng Lời Chúa là một công tác của chức vụ mình, nhưng công tác rao giảng Lời Chúa không hoàn toàn chỉ dành cho họ. Những người khác được ơn và được chuẩn bị bởi Đức Thánh Linh để rao giảng và được Hội Thánh kêu gọi có thể giảng mỗi tháng.24

24Công vụ 11:19-21; 1 Phi-e-rơ 4:10-11.

Tất cả tín hữu bắt buộc phải tham gia Hội Thánh địa phương tại nơi họ có cơ hội. Cũng vậy, tất cả những ai được hưởng quyền lợi từ Hội Thánh cũng phải thuận phục sự môn đệ hoá và quản trị tại đó, theo như quy định của Đấng Christ.25

251 Tê-sa-lô-ni-ca 5:14; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 3:6, 14-15.

Thành viên Hội Thánh bị xúc phạm và đã thực hiện trách nhiệm của họ liên quan đến người xúc phạm họ thì không nên ngăn cản các hành động từ Hội Thánh, hoặc tránh mặt hội chúng, hay các hoạt động của Hội Thánh. Thay vào đó, họ nên nhìn xem Đấng Christ trước các hoạt động sắp tới của Hội Thánh.26

26Ma-thi-ơ 18:15-17; Ê-phê-sô 4:2-3.

Mọi Hội Thánh và tất cả thành viên đều phải cầu nguyện liên tục cho sự tốt lành và thịnh vượng của các Hội Thánh của Đấng Christ ở khắp mọi nơi.27 Họ cũng phải – với mọi cơ hội trong giới hạn nơi họ ở và sự kêu gọi họ có – thực hành ân tứ họ có và ân điển để làm ích cho Hội Thánh. Cũng vậy, khi Hội Thánh được thành lập bởi sự chu cấp của Chúa, chừng nào họ còn vui thích cơ hội và hoàn cảnh họ có, họ nên có mối thông công với nhau về sự bình an, tăng trưởng trong tình yêu thương, và sự gây dựng chung.28

27Ê-phê-sô 6:18; Thi thiên 122:6. 28Rô-ma 16:1-2; 3 Giăng 8-10.

Các tình huống phức tạp hoặc khác biệt – về giáo lý hay cách lãnh đạo – có thể xảy ra, tác động đến sự bình an, hiệp nhất và gây dựng của tất cả Hội Thánh. Những trường hợp khác có thể xảy ra khi một thành viên Hội Thánh bị tổn thương hay bị kỷ luật do không giữ lẽ thật và bất tuân các quy định. Trong những trường hợp này, ý muốn của Đấng Christ là các Hội Thánh có mối thông công gặp nhau qua người đại diện để cân nhắc và cho lời khuyên về vấn đề gây tranh cãi và để thông báo lời khuyên tới tất cả Hội Thánh có liên quan.29  Tuy nhiên, những người đại diện này không được giao cho bất cứ thẩm quyền nào. Họ cũng không có quyền hạn trên Hội Thánh để thực hành bất cứ sự kỷ luật nào trên Hội Thánh hay cá nhân, hay áp đặt quyết định của họ trên tổ chức Hội Thánh.30

29Công vụ 15: 2, 4, 6, 22-23, 25. 302 Cô-rinh-tô 1:24; 1 Giăng 4:1.

 

 

  1. SỰ THÔNG CÔNG CỦA CÁC THÁNH ĐỒ

Tất cả thánh đồ hiệp một trong Đấng Christ là Đầu của hội thánh.  Họ có mối thông công trong ân điển, sự khổ nạn, sự chết, sự sống lại và vinh hiển của Ngài.1 Bởi họ hiệp một với nhau trong tình yêu thương, họ có mối thông công trong ân tứ và ân điển của nhau2 và phải thực hiện các nghĩa vụ này, ở cả nơi công cộng và chốn riêng tư. Họ có trách nhiệm phải giúp đỡ lẫn nhau.3

11 Giăng 1:3; Giăng 1:16; Phi-líp 3:10; Rô-ma 6:5-6. 2Ê-phê-sô 4:15-16; 1 Cô-rinh-tô 12:7; 1 Cô-rinh-tô 3:21-23. 31 Tê-sa-lô-ni-ca 5:11, 14; Rô-ma 1:12; 1 Giăng 3:17-18; Ga-la-ti 6:10.

Thánh đồ phải gìn giữ mối thông công thánh và hiệp nhất trong sự thờ phượng Chúa và khi thực hiện các nghi lễ thuộc linh khác để phát triển sự thánh hoá chung.4 Họ cần phải giúp đỡ lẫn nhau về vật chất theo khả năng và nhu cầu mỗi người.5 Họ nên đặc biệt thực hành sự đồng công trong mối quan hệ họ có với gia đình6 và Hội Thánh.7 Nhưng luật lệ của phúc âm cũng chỉ dẫn họ, khi Chúa ban cho cơ hội, để mở lòng chia sẻ tới những người ở những nơi kêu cầu danh Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sự thông công của các thánh đồ không được tước đi hay xâm phạm quyền sở hữu cá nhân về hàng hoá và tài sản.8

4Hê-bơ-rơ 10:24-25; Hê-bơ-rơ 3:12-13. 5Công vụ 11:29-30. 6Ê-phê-sô 6:4. 71 Cô-rinh-tô 12:14-27. 8Công vụ 5:4. Ê-phê-sô 4:28.

 

 

  1. PHÉP BÁP TEM VÀ TIỆC THÁNH

Phép Báp Tem và Tiệc Thánh là những thánh lễ được quy định. Hai lễ này được Chúa Giê-su chỉ định, và tiếp tục thực hành trong Hội Thánh của Ngài cho đến thời kỳ cuối cùng.1

1Ma-thi-ơ 28:19-20; 1 Cô-rinh-tô 11:26.

Hai nghi lễ thánh này chỉ được thực hiện bởi những người đủ tiêu chuẩn và được kêu gọi  theo chỉ định của Đấng Christ.2

2Ma-thi-ơ 28:19; 1 Cô-rinh-tô 4:1.

  1. PHÉP BÁP TEM

Phép báp-tem là thánh lễ được nhắc đến trong Tân Ước, được quy định bởi Chúa Giê-su. Với những người được báp-tem, đây là dấu hiệu của sự thông công với Ngài trong sự chết và sống lại của Ngài, rằng họ đã được ghép vào với Ngài,1 được tha thứ tội lỗi,2 và thuận phục Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-su để sống và bước đi trong cuộc đời mới.3

1Rô-ma 6:3-5; Cô-lô-se 2:12; Ga-la-ti 3:27. 2Mác 1:4; Công vụ 22:16. 3Rô-ma 6:4.

Chỉ những ai tự tuyên xưng ăn năn với Đức Chúa Trời và có đức tin và vâng phục Chúa Giê-su mới được tham gia thánh lễ này.4

4Mác 16:16; Công vụ 8:36-37; Công vụ 2:41; Công vụ 8:12; Công vụ 18:8.

Yếu tố được sử dụng trong thánh lễ này là nước để từng người được báp-tem trong danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh.5

5Ma-thi-ơ 28:19-20; Công vụ 8:38.

Nhúng mình hay dìm mình trong nước là phương cách cần thiết để thực hiện thánh lễ này.6

6Ma-thi-ơ 3:16; Giăng 3:23.

 

 

  1. TIỆC THÁNH

Tiệc Thánh được Chúa Giê-su chỉ định vào đêm Ngài bị phản bội. Tiệc Thánh phải được thực hiện trong Hội Thánh đến thời kỳ cuối cùng để tưởng nhớ vĩnh viễn và bày tỏ sự hy sinh của Đấng Christ qua sự chết của Ngài.1 Thánh lễ này để khẳng định đức tin của các tín hữu trong mọi lợi ích họ có được từ sự chết của Đấng Christ, sự nuôi dưỡng và tăng trưởng thuộc linh trong Ngài, và tương lai tham gia vào tất cả những trách nhiệm họ có với Ngài. Tiệc Thánh là sự hiệp nhất và sự đảm bảo cho sự thông công của họ với Đấng Christ và với nhau.2

11 Cô-rinh-tô 11:23-26. 21 Cô-rinh-tô 10:16-17, 21.

Thánh lễ này không phải để kỷ niệm Đấng Christ được dâng lên cho Cha hay của lễ được dâng lên để giảm bớt tội lỗi của kẻ sống và kẻ chết. Lễ này chỉ dành để tưởng nhớ Đấng Christ phó chính mình Ngài làm của lễ trên thập tự giá một lần cho tất cả mọi người.3 Lễ này cũng là của lễ thuộc linh cho sự ngợi khen cao nhất hướng đến Đức Chúa Trời.4 Có thể nhận thấy rằng giáo lễ của Công giáo La Mã về sự kiện này là không phù hợp với Lời Chúa và làm lu mờ sự hi sinh của Đấng Christ, là của đền tội duy nhất cho tất cả tội lỗi của những người được chọn.

3Hê-bơ-rơ 9:25-26, 28. 41 Cô-rinh-tô 11:24; Ma-thi-ơ 26:26-27.

Trong thánh lễ này, Chúa Giê-su chỉ định cho những người thực hành mục vụ cầu nguyện và chúc phước cho bánh và rượu, theo cách những thực phẩm này được biệt riêng cho mục đích thánh. Họ nhận và bẻ bánh, nhận lấy chén và trao cho những người tham gia và chính họ.5

51 Cô-rinh-tô 11:23-26, v.v.

Không đưa chén (hay ly) cho mọi người mang theo hoặc giữ lại sau khi thờ phượng.6

6Ma-thi-ơ 26:28; 15:9; Xuất Ai Cập ký 20:4-5.

Những thứ được sử dụng trong thánh lễ này, được biệt riêng cách thích hợp để sử dụng theo ý muốn Đấng Christ, có mối liên hệ với sự đóng đinh của Đấng Christ mà đôi khi chúng được gọi– thực sự là để ẩn dụ – bằng tên của những thứ chúng đại diện, đó là thân và huyết của Đấng Christ.7 Tuy nhiên, về bản chất thì chúng vẫn chỉ là rượu và bánh thông thường.8

71 Cô-rinh-tô 11:27. 81 Cô-rinh-tô 11:26-28.

Giáo lý cho rằng thánh lễ này được gọi là hoá thể, bánh và rượu đã được biến đổi thành thân thể và huyết của Đấng Christ bằng sự thánh hoá của thầy tế lễ hoặc theo cách nào đó. Một giáo lý như vậy không chỉ chống lại Kinh Thánh9 mà còn bất hợp lý. Giáo lý hoá thể phá hủy bản chất của thánh lễ tiệc thánh và trở thành nguyên nhân của nhiều kiểu mê tín dị đoan và thờ thần tượng.10

9Công vụ 3:21; Lu-ca 24:6, 39. 101 Cô-rinh-tô 11:24-25.

Những người đáng được tham gia vào những nghi lễ thấy được bên ngoài cũng bởi đức tin tiếp nhận bên trong sự đóng đinh của Đấng Christ và tất cả lợi ích từ sự chết của Ngài. Họ tham gia thuộc thể và thuộc linh cách chân thật. Thân thể và huyết của Đấng Christ không được bày tỏ theo thuộc thể trong nghi lễ mà theo thuộc linh tới đức tin của tín hữu, cũng như bánh và rượu là để bày tỏ ý nghĩa ở bên ngoài vậy.11

111 Cô-rinh-tô 10:16; 11:23-26.

Tất cả những người dại dột và không tin kính không thể thông công với Đấng Christ nên không xứng đáng được tham dự Tiệc Thánh. Nếu họ cứ ở trong tình trạng như vậy, họ không thể tham gia vào những lẽ đạo huyền nhiệm thánh này hoặc nếu tham gia thì họ đang vi phạm tội lỗi nghiêm trọng chống lại Đấng Christ.12 Tất cả những ai dự Tiệc Thánh cách không xứng đáng đều có tội với huyết và thân thể Đấng Christ, ăn và uống lấy sự phán xét cho chính mình.13

122 Cô-rinh-tô 6:14-15. 131 Cô-rinh-tô 11:29; Ma-thi-ơ 7:6.

 

 

  1. TÌNH TRẠNG CỦA CON NGƯỜI SAU KHI CHẾT VÀ SỰ SỐNG LẠI TỪ KẺ CHẾT

Thân thể của những người đã chết trở lại với cát bụi và bị mục nát.1 Nhưng linh hồn của họ chẳng chết cũng chẳng ngủ, bởi có bản tính bất tử và ngay lập tức trở về với Đức Chúa Trời là Đấng ban cho linh hồn.2 Linh hồn của người công chính trở nên hoàn hảo trong sự thánh khiết và được tiếp nhận vào ba-ra-đi. Tại đó họ ở với Đấng Christ và được ngắm nhìn  Đức Chúa Trời trong sự sáng và vinh hiển trong khi chờ đợi sự cứu chuộc trọn vẹn của thân thể.3 Linh hồn của những kẻ khước từ ơn cứu rỗi bị ném vào hỏa ngục, nơi họ chịu hình phạt và sự tối tăm, để dành cho sự phán xét trong ngày cuối cùng.4 Kinh Thánh chỉ nhắc đến hai chỗ này khi linh hồn bị chia cắt khỏi thân thể.

1Sáng thế ký 3:19; Công vụ 13:36. 2Truyền đạo 12:7. 3Lu-ca 23:43; 2 Cô-rinh-tô 5:1, 6, 8; Phi-líp1:23; Hê-bơ-rơ 12:23. 4Giu-đe 6-7; 1 Phi-e-rơ 3:19; Lu-ca 16:23-24.

Vào ngày cuối cùng, những thánh đồ còn sống sẽ không ngủ nhưng được biến đổi cách vinh diệu.5 Tất cả những người đã chết sẽ thức dậy với cùng thân thể cũ, 6 dù tính chất sẽ khác. Thân thể họ sẽ hiệp lại với linh hồn mãi mãi.7

51 Cô-rinh-tô 15:51-52; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:17. 6Gióp 19:26-27. 71 Cô-rinh-tô 15:42-43.

Thân thể của những kẻ bất chính sẽ thức dậy để bị trừng phạt. Bởi Thánh Linh, thân thể của người công chính sẽ sống lại để được khen ngợi và sẽ trở nên giống như thân thể vinh hiển của Đấng Christ.8

8Công vụ 24:15; Giăng 5:28-29; Phi-líp 3:21.

 

  1. SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG

Đức Chúa Trời đã định sẵn một ngày Ngài sẽ phán xét thế gian trong sự công chính. Đức Chúa Giê-su,1 là Đấng Cha đã trao cho mọi quyền năng và sự phán xét. Vào ngày đó, các thiên sứ bội nghịch sẽ bị phán xét.2 Cũng vậy, tất cả những người từng sống trên đất sẽ đến ngai phán xét của Đấng Christ, để chịu trách nhiệm cho suy nghĩ, lời nói, và hành động và nhận lấy kết quả dựa trên những gì họ đã làm, dù tốt hay xấu.3

1Công vụ 17:31; Giăng 5:22, 27. 21 Cô-rinh-tô 6:3; Giu-đe 6. 32 Cô-rinh-tô 5:10; Truyền đạo 12:14; Ma-thi-ơ 12:36; Rô-ma 14:10, 12; Ma-thi-ơ 25:32-46.

Mục đích Đức Chúa Trời đặt ra ngày này là để bày tỏ vinh hiển của sự thương xót Ngài trong sự cứu rỗi đời đời cho những người được chọn, và  Ngài  kết án đời đời những kẻ có tội, xấu xa và bất tuân.4 Đến lúc đó, người công chính sẽ bước vào sự sống đời đời và nhận lấy niềm vui và vinh hiển đầy trọn với phần thưởng  trong sự hiện diện của Chúa. Nhưng kẻ xấu xa, kẻ không nhận biết Chúa và không vâng theo phúc âm của Chúa Giê-su sẽ bị ném vào nơi khổ hình đời đời5 và bị trừng phạt đời đời, bị chia tách khỏi sự hiện diện của Chúa và vinh hiển của năng quyền Ngài.6

4Rô-ma 9:22-23. 5Ma-thi-ơ 25:21, 34; 2 Ti-mô-thê 4:8. 6Ma-thi-ơ 25:46; Mác 9:48; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7-10.

Đấng Christ muốn chúng ta biết chắc ngày phán xét sẽ đến,7 và yên ủi người công chính trọn vẹn trước kẻ thù họ.8 Bởi vậy, Chúa đã quyết định khiến ngày này không được tiết lộ để khích lệ dân sự từ bỏ mọi sự vui thú xác thịt và luôn luôn tỉnh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ nào Chúa Giê-su sẽ đến9 và để họ luôn sẵn sàng nói rằng, “A-men, lạy Đức Chúa Giê-su, xin hãy đến.”10

72 Cô-rinh-tô 5:10-11. 82 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5-7. 9Mác 13:35-37; Lu-ca 12:35-36. 10Khải huyền 22:20.

 

The end

 

Có thể bạn quan tâm